Gia Lai Kontum là một tỉnh lớn của
cao nguyên trung phần Việt Nam, với diện tích là 23,536m2; nơi có
một vị trí đặc biệt thuận lợi: Phía Đông giáp ranh Quảng Ngãi Bình Định, Tây
giáp biên giới Lào, Phía Nam giáp Đắk Lắk (Ban Mê Thuộc). Đó là một cao
nguyên rộng lớn ở độ cao 1480m, thị xã Pleiku nằm giữa ngã tư giao lộ của
Quốc Lộ 14 và 19. Từ thành phố Pleiku theo Quốc lộ 14 đi về phía Nam sẽ đến
Đắk Lắk, ngược lên phía Bắc là đến Quảng Nam Đà Nẳng, nếu theo Quốc lộ 19 về
hướng Đông sẽ gặp Qui Nhơn, còn theo hướng Tây sẽ đến biên giới Lào. Pleiku
là một thành phố nhỏ bé “Đi dăm phút trở về chốn cũ “nhưng Pleiku lại có
nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Biển Hồ, thác Yaly, đèo Mang Giang.
Phố chính với con đường nhỏ có hai hàng thông già cao vút “Lặng đứng hứng bụi
xa”, về mùa nắng Pleiku bụi đỏ mù trời, mờ mắt, mùa mưa thì sình lầy bám nặng
gót giày, bùn lấm chân. Vừa ra khỏi thành phố tầm nhìn của ta không còn bị
giới hạn; không gian bao la với những đồi cỏ xanh mướt chạy dài và những
nương rẫy ngút mắt. Ngoài những cảnh đẹp thiên nhiên, Pleiku còn là nơi đóng
quân của SĐ 23 bộ binh, căn cứ chính đặt tại Kontum. Gồm các đơn vị Biệt Động
quân, Lôi Hổ. Nổi tiếng là đơn vị Pháo Binh trấn ở núi Hàm Rồng; Pleiku còn
có Sư Đoàn 6 Không Quân với phi trường Cù Hanh đìu hiu buồn bã.
Tôi đến Pleiku vào một chiều cuối
tháng 9 - 1973 với tờ Sự Vụ Lệnh trong tay. Nhiệm sở là trường Nam Trung Học
Pleiku. Máy bay đáp xuống Phi trường Cù Hanh lúc 4 giờ chiều, trời lất phất
mưa nên đường bay loang loáng nước, dọc theo sân bay là hàng rào kẽm gai chạy
dài tít tắp, ngoài hàng rào kẽm gai là những luống bắp xanh mượt mà, đất đỏ
quánh bên dưới còn mây xám giăng lưng trời. Tôi lên xe Ca về
thành phố. Tâm hồn vừa hoang mang lo lắng vừa bồn chồn nao nức vì khung cảnh
xa lạ, đìu hiu và cuộc sống mới đang chờ đợi tôi: cô sinh viên vừa mới rời
khỏi ghế giảng đường trường Đại Học Đà Lạt. Xe chạy qua những vùng đất trống
đầy cỏ non, nương rẩy toàn là một màu xanh của cây và lá. Gần vào thành phố
mới thấy được vài dảy nhà, có lẽ là trại gia binh, nằm hiu hắt chơi vơi
buồn trong mưa.
Thành phố nhỏ bé đẹp một cách
hoang sơ; nhà lẩn trong cây và phố ẩn trong mây, có rất nhiều lính đi
lại trên đường. Đây là thành phố của Quân Đội, những anh chàng phi công bay
bướm với calor đội lệch trên đầu; lãng mạn trong bộ Conbinaison, các chàng
Biệt Động Quân, Lôi Hổ,Biệt Kích, ngang tàng oai phong trong bộ đồ rằn ri…
Vừa xuống xe ca tôi giật thót mình khi nghe những tiếng đại bác “ầm ì” từ xa
vọng lại, nhưng chung quanh tôi mọi người vẫn có vẽ bình thản dửng dưng như
đã quá quen thuộc với thứ âm thanh này.
Những ngày sau đó tôi bận rộn với bao nhiêu là công việc,
trước tiên trình diện với ông Hiệu Trưởng, mướn nhà ở, nhận lớp, nhận thời
khóa biểu, mua sách và tài liệu để dạy học.. Tôi tạm quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ
cha mẹ, nhớ vú, vả lại nơi thành phố này còn có người yêu của tôi đang ở,
nên tôi không cảm thấy buồn. Nhờ vợ thầy hiệu trưởng giới thiệu nên tôi mướn
được một căn phòng nhỏ trên gác xép của ngôi nhà số 7 Đường Tăng Bạt Hổ,
đối diện hông nhà thờ Quân Đội. Anh chị chủ nhà tên Ninh, trước cổng nhà có
cây hoa ngọc lan tỏa hương thơm ngào ngạt. Mặc dù phi trường Cù Hanh cách
thành phố Pleiku khoãng chừng 05km nhưng nếu lắng tai vẫn nghe được tiếng
các loại máy bay, khu trục bay lên đáp xuống, trực thăng và L19 suốt ngày
lượn ngang lượn dọc trên bầu trời đầy mây; nó đã trở thành một hình ảnh quen
thuộc đối với người dân trong thị xã; mà phần đông họ là những người thân của
lính. Xa xa tiếng súng đại bác từ căn cứ Hàm Rồng vọng về ì ầm hòa nhịp với
tiếng phi cơ bay lượn vù vù trên không làm cho Pleiku; vốn rất hiền lành mộc
mạc nên thơ và lãng mạn lại mang sắc thái của chiến tranh; vừa có vẻ đe dọa
vừa trấn an vỗ về. Những ngày mới đến đây lòng tôi đầy sợ hãi nhưng rồi cũng
quen dần, lâu ngày lại cảm thấy điều đó thật bình thường, có những đêm hỏa châu
chiếu sáng một góc trời, phía phi trường Cù Hanh có nhiều tiếng nổ rung
chuyển mặt đất, máy bay bay vụt lên hối hả trong đêm đen, đó là lúc phi
trường bị pháo kích dử dội, tôi thường giật mình thức giấc… nhưng mãi rồi
cũng quen.
Trong
năm học 69-70, trường được bổ túc các giáo sư vừa tốt nghiệp Đại Học sư phạm
Huế như: thầy Nguyễn Đăng Dự, thầy Trần đình Khuông, thầy Lê ngọc Bưu …
Vào đầu năm 1971, theo Chỉ thị của
Bộ Giáo Dục, chương trình giáo dục chuyển sang hệ 12 năm. Bậc tiểu học từ các
lớp 1 đến 5, trung học từ lớp 6 đến lớp12 và bỏ hẳn cách gọi tên lớp kiểu cũ.
Niên khoá 1971-1972, học sinh lớp
mười (đệ Tam cũ) chỉ còn nam sinh do trường nữ TH Pleime bắt đầu mở các lớp
đệ nhị cấp.
Trường lúc này đặt dưói quyền quản
trị của Sở Học Chánh Pleiku do giáo sư Thái văn Duy làm Chánh Sở. Sở Học
Chánh Pleiku trực thuộc Khu Học Chánh Cao Nguyên Trung Phần tại Nha Trang và
bộ Giáo Dục tại Saigon.
Trong khoảng thời gian này, nhiều
giáo sư vừa tốt nghiệp Viện Đại Học Đà Lạt, Huế và Sài Gòn hay thuyên chuyễn
từ các tỉnh lân cận được bổ nhiệm về trường như: cô Thái Thị Lựu, thầy Lê Mậu
Phúc, Cô Hồng Ân, Cô Thủy, thầy Võ Thu Lương, cô Trương thị Ân, cô Phan Thị
Lựu, cô Hà thị Mười Một (từ TH Pleime)...
Đầu năm 1973, Bộ Văn Hóa và Giáo
Dục VNCH ra quyết định bãi bỏ kỳ thi Tú tài 1 vào cuối năm lớp 11 trên toàn
quốc và học sinh tốt nghiệp trung học sẽ thi một kỳ thi tú tài duy nhất sau
khi hoàn tất lớp 12.
Đầu năm học 72-73, thầy Lê văn Lập
được bổ nhiệm Hiệu Trưởng Trung học Pleiku thay thế thầy Nguyễn Đức Trung
chuyển công tác về Bộ Giáo Dục tại Saigon.
1973-1974: Đầu niên học 73-74, Bộ Giáo Dục ra chỉ thị cải tổ giáo
dục: đổi kỳ thi viết Tú tài bằng kỳ thi trắc nghiệm (thường được gọi là Tú
Tài IBM). Năm này giáo sư Phan Mỹ Thọ về dạy Triết lớp 12 của trường…
Ngày tháng trôi qua thật êm đềm, tôi đã thân thiết với
từng ánh mắt nụ cười đơn sơ của các em học trò, lòng đầy nhiệt thành với
những bài giãng trong lớp học. Những con đường trong thành phố trở nên quen
thuộc đáng yêu khi người ta chỉ cần “đi dăm phút trỡ về chốn cũ”. Tôi đã hòa
chung hơi thở cuộc sống của mình vào với con người và vạn vật nơi đây, nghỉ
rằng sẽ chẳng bao giờ rời xa. Thế nhưng cuộc đời không bình lặng như lòng ta
mong muốn, đầu năm 1975 mọi việc thay đổi một cách khác thường; tiếng đại bác
ầm ì liên tục, dồn dập hối hã cấp bách suốt ngày, giấc ngủ được ru bằng số
đếm… ấm… 1 quả… Ầm… 2 quả… Ầm… 3 quả…, ban ngày trong phi trường máy bay gầm
rú bay lên đáp xuống; trực thăng và L19 lượn quanh nền trời trong xanh như
những con chuồn chuồn kim chuồn chuồn ớt, ban đêm hỏa châu sáng rực nhiều
nơi, lúc nào cũng nghe “cắm trại, cấm quân “.Đến gần cuối tháng 2/1975 tin
tức chiến sự nóng bỏng trên các trang báo, các đài phát thanh…, đâu đâu cũng
chỉ nói về chiến tranh; pháo kích dồn dập như cơm bữa, súng nổ nghe như sát
bên tai, giấc ngủ thường xuyên bị tiếng súng đại bác làm giật mình, tỉnh giấc
giữa đêm lòng đầy ưu tư suy nghỉ. Đọc một bài báo nghe một bản tin để rồi
bàn tán lo âu suốt ngày: Các Sư Đoàn Quãng Trị rút về Huế, Huế bôn tẩu vào Đà
Nẵng, Đà Nẵng rút nhanh vào Qui Nhơn…. Các từ: “di tãn, tử thủ, bỏ ngỏ”, luôn
được nhắc đi nhắc lại và trở thành đề tài chính trong các câu chuyện ở bất cứ
mọi lúc mọi nơi. Những gia đình giàu có bắt đầu thu xếp hành lý ra đi, Air
Việt Nam đông nghẹt người chen lấn, các sĩ quan cao cấp có quyền hành và
phương tiện vội vã đưa vợ con lên xe hoặc lên máy bay chạy trốn thành phố nhỏ
bé này để về Nha Trang hay Sài Gòn. Người đi trên phố nét mặt lo âu căng
thẳng, chân bước vội vàng hấp tấp như tiếng súng dồn dập; tiếng nổ gần, tiếng
nổ xa, tiếng nổ lớn, tiếng nổ nhỏ, mọi âm vang trộn lẫn vào nhau…. các quận
lỵ như: Thanh An, Pleime, Dacto, Lệ Trung… nghe rằng đã xuất hiện rất nhiều
bóng dáng VC; lính bỏ đồn đóng quân cũng khá nhiều. Không ai dám nói ra nhưng
trong lòng ngầm hiểu với nhau rằng…
Tôi vẫn đến trường trong nổi hoang mang lo lắng, học sinh
theo cha mẹ di tản nghĩ từ từ, lớp học vơi dần nên sân trường luôn vắng vẻ,
cả thầy và trò đều không còn tinh thần để dạy hay để học. Phần lớn các Giáo
sư dạy ở những trường trong thị xã Plei ku đều tốt nghiệp từ các trường Đại
học Sư Phạm Huế hay Đà Lạt; được bổ nhiệm về đây nên hoàn cảnh giống nhau là
sống xa gia đình, trong tình hình này chúng tôi có cùng tâm trạng lo lắng, sợ
hải và cô đơn như nhau, riêng tôi càng đặc biệt hơn, tôi lạc lỏng mất phương
hướng và vô cùng hoảng hốt. Dù biết có đến trường cũng chẳng dạy được gì
nhưng vẫn cứ đến; đến để gặp nhau vài phút, hỏi nhau vài câu, chia sẽ với
nhau nổi lo lắng sợ hãi, sau đó kéo nhau về nhà chị Bích nghe nhạc - chị Bích
là giáo sư dạy môn Toán; cùng trường với tôi, chị có chồng và 4 đứa con; ở
nhà thường gọi là các con chị bằng những tên: Ty Anh, Ty Em, My Cò và Bé
Ly Ly, chồng chị là anh Hồ Thi đại úy Biệt Động Quân được biệt phái vào Sài
Gòn học khóa sĩ quan đặc biệt, nhà chị nằm trong khu cư xá sĩ quan, gia đình
chị khá đông, gồm có bố mẹ là ông bà An, Hằng cũng dạy học ở trường Minh
Đức, Anh Đạt, Khải, cũng là sĩ quan Bộ binh, Biệt động quân như anh Thi, Luật
đang hoc Đại học ở SG, Minh, Kiều, Ty (là em trai út) đang đi học; còn Ngân
và Hoa là em họ của chị nhà ở Đà Nẵng nhưng học các trường trong thành phố
Pleiku;
Mỗi
lần tôi đến nhà chị Bích chơi, Hằng thường mở cassette để nghe nhạc và pha
cà phê uống, nhìn những giọt cà phê nhỏ xuống ly đầu óc tôi mông lung trống
rổng…. Lúc này tôi rất muốn vào Phi trường Cù Hanh tìm Bang để nhờ vả 1 chổ
ngồi trên 1 chiếc máy bay nào đó…, nhưng tự ái của tôi đã ngăn tôi lại, mấy
lần xe lam dừng trước cổng phi trường, tôi chỉ đứng bên ngoài nhìn khung cảnh
người ta nhốn nháo, chen lấn, la hét, cải cọ nhau; như một khán giã nhìn các
diển viên trên sân khấu; thế thôi, rồi tôi buồn bã quay trở về phòng trọ lặng
lẽ khóc: “anh ơi, anh rất gần mà lại cũng rất xa;” Phi trường Cù Hanh không
còn đìu hiu vắng vẻ nữa, với chiến sự này ai cũng muốn dành lấy cho mình một
phương tiện nhanh nhất, an toàn nhất để rời khỏi Pleiku. Thời gian này tâm
hồn tôi luôn giao động, âu lo và tuyệt vọng. Mỗi lần thầy trò gặp nhau, đều
nhìn nhau quyến luyến như thể sẽ không bao giờ còn được thấy nhau. Những ngày
này tôi khóc nhiều lắm, may mà có gia đình chị Bích, có Hằng, Khải… bên
cạnh.
Một
buổi sáng tôi nhận được điện tín của cha tôi từ Nha Trang gởi lên; đề ngày:
3-3-1975 với giòng chữ “Mẹ bịnh nặng, con về gấp;” tôi hốt hoảng cầm tờ điện
tín chạy đến nhà chị Bích, cả nhà chị trấn an tôi;
-
Cha mẹ muốn Thủy về gấp đó mà, mấy giáo sư xa nhà đều nhận được điện tín như
thế này.
Tôi
cố trấn tỉnh cầm tờ điện tín chạy ra Air Việt Nam, cô nhân viên bán vé trả
lời cộc lốc: “Hết chổ”, tôi hít vào một hơi thật sâu rồi thở ra thật dài, đi
từng bước nặng nề về phòng trọ, nằm dài ra giường nhìn lên trần nhà, không
chịu nổi sự vắng lặng của căn phòng tôi ngồi bật dậy chạy ra bến xe lam, tới
cổng phi trường bước xuống xe chỉ đứng im mà lòng thì ngổn ngang trăm mối,
tôi muốn gào thật to ‘ Anh Bang ơi, ra đưa Thủy về ,” nhưng tiếng gào của tôi
dội ngược vào trong tim, nghẹn cứng, đắng nghét cả đầu lưỡi, tôi lại quay về
trên chiếc xe lam ban nảy, bác xe lam hỏi tôi :
-
Cháu tìm ai mà sao không vào?
-
Dạ, không tìm ai cả.
Tôi
không dám về phòng mình nữa nên đến thẳng nhà chị Bích, ở đó có Hằng, có
Khải, Minh…. Tôi bớt cô đơn và sợ hãi phần nào.
Tờ
Điện tín thứ 2, thứ 3, dồn dập gởi đến, vẫn nét mặt vô cảm “Hết chổ”, cho
đến ngày 8 - 3 - 1975 Air Việt Nam đóng cửa với tấm bãng thông báo “Ngưng
hoạt động”. Đến lúc này thì không thể kềm chế được nữa, tôi òa khóc ngay
trên phố, không chỉ mình tôi khóc mà còn có rất nhiều người cũng khóc như
tôi. Tôi chạy nhanh ra bến xe lam, leo lên xe với hai hàng nước mắt rơi đầy
trên má, lại đến cổng phi trường lại đứng nhìn mọi người chen lấn, sau cùng
tôi ngồi gục xuống nói thầm - “Anh ơi, sao anh không đưa Thủy về Nha Trang?
”. Tôi chẳng biết mình ngồi đó được bao lâu, nhưng khi đứng lên tôi nói lớn
“vĩnh biệt anh.” Đó là lần cuối cùng tôi đến phi Trường Cù Hanh.
15/03/1975
Khi
tôi vừa bước vào phòng Gíao Sư, thì thấy ở đó một nhóm các anh chị đứng lố
nhố trước tấm bảng thông báo của nhà trường, anh Cẩn đọc lớn:
-
Hiệu trưởng Trường Trung Học Pleiku thông báo cho toàn thể Gíao Sư được rõ:
theo thông tư mới nhất của Sở Gíao Dục; yêu cầu các giáo sư phải đến trường
dạy học như thường lệ, ai vắng mặt xem như ĐÀO NHIỆM và sẽ bị đưa ra hội
đồng kỷ luật.
Pleiku
- Ngày 14/03/1975
Ký
tên:
HT:
LÊ VĂN LẬP
Chúng
tôi ngạc nhiên, rồi ngơ ngác nhìn nhau, tờ thông báo có vẻ mĩa mai khôi hài
quá, khi quanh trường chỉ độ 10 em học sinh đang đưng chơ vơ lạc lỏng. Chị
Bích, anh Cầu, anh Cẩn, Thoa, Thắng… và tôi đi nhanh đến nhà ông Lập; đúng
hơn là nơi gia đình ông ở, nằm phía sau phòng kế toán của nhà trường, anh Cầu
kêu lớn: “Lập ơi, Lập, có trong đó không?”, cửa nhà không khóa, trong nhà
không một bóng người, các tủ mở banh trống rổng; thế có nghĩa là sau khi
viết thông báo xong thầy Lập là người đầu tiên đào nhiệm. Chúng tôi không ai
bảo ai cùng tuôn chạy về nơi ở của mình, bỏ lại sau lưng ngôi trường trống
vắng cùng lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió lạnh ban mai, cây cờ này sẽ
đứng vững được bao lâu nữa thì ngã xuống? Và tôi; tôi sẽ ra sao? Tôi đi nhanh
về nhà trọ, ngôi nhà trống trải vắng lặng không một bóng người, chiếc xe Jeep
của anh chị Ninh không còn trong sân, con chó vẫn thường vẩy đuôi mừng mỗi
khi tôi về nhà cũng biến đâu mất, tôi mở cửa phòng mình; một tờ giấy rơi ra
từ khe cửa:
“Cô
Thủy, gia đình anh chị phải đi gấp, mấy hôm nay cô ở đâu không về? cố gắng
thu xếp đi nhanh, anh chị mong gặp cô tại Nha Trang, tạm biệt. Anh chị:
Ninh;”
Tôi
gục xuống nền nhà co người lại khóc nức nở; Thế là hết, thành trì cuối cùng
trong tôi sụp đổ tan nát; cũng tại tôi mấy ngày qua lang thang quá nhiều, và
bây giờ tôi đang phải đối diện với nổi kinh hoàng quá lớn cùng sự cô đơn
khủng khiếp, dù sao cũng phải chổi dậy mà đi… Cuối cùng tôi cố gắng đứng lên
lau nước mắt thu xếp áo quần và giấy tờ quan trọng, đem theo vài đĩa nhạc cổ
điển của Mozart, Beethoven, mấy đĩa nhạc hòa tấu của Paul Mauriat, France
Pourcell và hai đĩa nhạc của Connie Francis mà tôi yêu thích… rất nhanh
tôi vội vả ra khỏi ngôi nhà nơi tôi ở trọ, nhìn lần cuối cây ngọc lan trước
cổng, ôi cây ngọc lan yêu dấu từng làm thơm chuyện tình của chúng tôi. Bổng
nhiên tôi cảm thấy cả thể xác lẩn tâm hồn rã rời mệt mỏi, tôi sẽ đi đâu bây
giờ? tôi sẽ đi với ai đây? sao tôi bơ vơ quá thế này? Hay thôi cứ ở lại chấp
nhận mọi điều xảy đến rồi ra sao thì ra, nổi sợ hãi lớn nhất của con người
là cái chết, đừng sợ chết thì không có gì phải sợ cả, điều đó có đúng không?
tại sao tôi lại dễ dàng buông xuôi thua cuộc; trong khi tôi chưa hẳn đối đầu
trực diện với cuôc chiến, chưa hề biết nó như thế nào. Sao tôi yếu đuối hèn
nhát thế kia? Còn nhiều điều chưa biết ở phía trươc, tôi còn rất trẻ và rất
trẻ, tôi chỉ mới 23 tuổi… cuối cùng tôi cắn răng nuốt nước mắt cùng nổi sợ
hãi vào lòng, thẳng lưng, hít một hơi dài đầy lồng ngực, ngẩn cao đầu, xách
vali thầm nói: “Đi thôi, đến nhà chị Bích thôi, ở đó có đông người cho mình
nương tựa”. Đi được nữa đường thì gặp Khải từ dưới dốc đi lên, Khải nhào đến
xách vali cho tôi, cười cười nói:
-
Anh đến trường đón Thủy mà không có Thủy; anh lo quá, Thủy đi với gia đình
anh nhé? À; mà có ai đưa Thủy đi không?
-
Không một ai, Thủy xách vali mà chạy, cả nhà chị Ninh đi hết rồi, Thủy sợ
quá.
Tôi
đi bên cạnh Khải, con đường quen thuộc mỗi ngày bổng dưng xa lạ, nhà nào
cũng đóng cửa im ĩm, không phải chỉ có tôi và Khải đi trên con đường này, mà
hầu như đường phố nào cũng có người tay xách nách mang, gồng gánh đồ
đạt, bồng bế nhau bước đi vội vả như tôi và Khải, mọi người đổ dồn ra
đường và người ta tìm mọi cách để ra khỏi thành phố này bằng tất
cã mọi phương tiện mà họ có, họ muốn thoát khòi Pleiku bằng mọi
giá dù nơi đó có tài sản, và cuộc sống của họ, tại sao thế?.
Khải muốn nói điều gì đó với tôi nhưng tôi vờ như không biết, khoãng thời
gian sau này cả nhà Khải ưa gán ghép tôi cho Khải, nhưng đối với tôi, Khải
chỉ là một chàng lính nghệ sĩ hát hay và lãng mạn, Khải chỉ có thể làm cho
tôi vui đôi chút nhưng không thể nào lấp được khoãng trống trong tâm hồn tôi,
một khoãng trống quá lớn mà anh Bang đã để lại khi anh ấy và tôi chia tay
nhau một năm trước đó, vào một tối trời mưa rất to… Gia đình chị Bích là một
sự kết hợp đầy tính chất nghệ sĩ của tất cả mọi người, hôm nay thì chẳng ai
dấu đươc vẽ lo lắng: ông bà An, Chị Bích, Hằng, Khải, Minh, Kiều, Ty; có cả
anh Đạt, đang đóng quân ở Kontum bỏ chạy về, nhưng vợ anh đã đưa 3 con nhỏ đi
chuyến xe trước, riêng có Thấm là em vợ anh bị kẹt lại ở nhà chị Bích.
Cả
nhà thấy tôi và Khải từ ngoài bước vào mọi người mừng rỡ, tôi nhìn trên mặt
của 16 người, là 16 nổi lo âu cộng lại, vì cậu bé Ti là em út trong gia
đình chỉ mới 12 tuổi thôi với Ty Anh, Ty Em, My Cò và bé Ly Ly hình như
cũng đang lo lắng theo mọi người; nên ngồi im lặng căng thẳng nhìn người lớn
thu dọn áo quần, đóng gói đồ đạc. Cảm thấy ngột ngạt và buồn quá, tôi bỏ ra
sau vườn nhà chị Bích, ngậm ngùi nhìn những luống rau ông An trồng; vẫn xanh
mơn mởn, tràn đầy sức sống, những cành lan rừng Khải mang về sau mỗi lần hành
quân vẫn bình yên khoe sắc, hương thơm thoang thoãng bay trong gió. Tôi sắp
xa nơi này, mãi mãi không bao giờ còn được đứng nơi đây, hay đi trên những
con đường bụi đỏ đầy ắp kỷ niệm, đầy tiếng guốc khua vang của tôi bên tiếng
giày của anh ấy, sẽ không còn được uống ly chanh đường mỗi chiều ở cà phê Vị
Thủy, hay ly cà phê sữa nóng mỗi sáng ở cà phê Văn, không còn những sáng
những chiều đến lớp, đứng trên bục giãng nhìn xuống những khuôn mặt học trò
thân yêu với những giờ học vui nhộn giữa thầy và trò; không còn những lần đợi
chờ đưa đón đã trở thành như hơi thở, như thịt da… nghĩa là sẽ không bao giờ
tôi ở đây hay trở lại nơi chốn này theo một nghĩa nào đó mà tôi sắp phải dự
phần vào.
Hằng
ra đứng bên tôi hai đứa nhìn nhau với nổi buồn như nhau, cùng chung một mất
mát lớn lao, tôi biết Hằng đang nhớ anh Sơn – chàng nghệ sĩ hát hay với cây
đàn guitar làm Hằng luôn xao xuyến, mấy ngày nay anh không đến chơi có lẽ anh
đã đi rồi, còn tôi, tôi cũng đang nhớ anh Bang ghê lắm. Ở trong nhà chị Bích
và bà An đang hối thúc mọi người: Ngân, Hoa, Kiều, Thấm…. thu dọn đồ đạc cho
nhanh, còn Khải thì cứ càu nhàu điều gì đó, tôi và Hăng trở vào nhà, thấy
tôi nét mặt cau có của Khải dãn ra cố tạo một nụ cười mềm mại, nhưng sao lại
trở nên méo mó thế?. Chị Bích khóc thút thít “Không chờ đươc anh Thi, làm sao
đây? ”. Tuần trước chị nhận được thư anh hẹn sẽ về đưa gia đình đi di tãn…,
chị nấn ná mấy ngày nay cố để chờ đợi anh.
Cả
gia đình chị Bích gồm 16 người, thêm tôi nữa là 17 hối hả xách đồ đạc ra khỏi
nhà, nhìn đông hồ là 9 giờ 45. Từ cư xá sĩ quan đến ban Quân vận không xa là
mấy, trên đường đi chúng tôi gặp rất nhiều người tay xách nách mang như mình,
làm như cả thành phố Pleiku rũ nhau cùng đi du lịch, một cuộc du lịch vĩ đại
và bắt buộc; Đến Ban quân vận, khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được chổ đứng,
ôi chao; người đâu mà đông quá; ai ai cũng có vẻ bồn chồn lo lắng, chúng tôi
gặp gia đình ông Lập và một số giáo sư của trường đang đứng chung một nhóm,
chị Bích hỏi ông Lập:
-
Sau khi viết thông báo cho chúng tôi, anh đến đây ngay chứ gì?
Ông
Lập cười:
-
Thật sự tôi chỉ kịp dán tờ thông báo cho mấy thầy cô rồi đưa gia đình ra đây.
Chị
Bích ghi tên cả nhà vào một tờ giấy (trong đó có tôi) rồi nộp vào bàn thâu
nhận danh sách của những người đi di tản. Những chiếc GMC nối đuôi nhau thành
một hàng dài, nhích dần lên từng chút một, xe nào cũng chậc cứng người và đồ
đạc. Đoàn người chờ đợi càng lúc càng đông, danh sách càng lúc càng dày cộm
trên tay anh lính Quân Vận, chờ đợi mỏi mòn, đến trưa mà chúng tôi vẫn chưa
được gọi tên, mọi người đều đói cồn cào cả ruột gan, nhất là bà An, bà có vẻ
mệt ghê lắm, Khải chen lên hỏi thăm anh lính quân vận; thì với tình hình
đông như thế này mai mới đến lượt gia đình. Tất cả mọi người lỉnh kỉnh “khăn
gói quả mướp “quay về nhà, trời đã về chiều, tiếng súng rất gần, rất lớn và
nổ dồn dập liên tục không ngớt, nhất là tiếng đạn pháo kích cứ đều đặn một
cách vô tình, như đang muốn đùa cợt với nổi sợ hãi của những người trong
thành phố nhỏ bé này. Riêng tôi; tôi tự hỏi: VC là ai? là gì mà làm cho người
ta sợ đến thế? có giống như những nhân vật tàn ác trong các câu chuyện cổ
tích dành cho con nít? Tôi nhìn lên tờ lịch hôm nay là ngày 15 tháng 3 năm
1975, tôi bắt đầu ghi nhớ các sự kiện sẽ xảy đến từng ngày liên quan đến cuộc
đời và chuyến viễn hành này của tôi……
16/03/1975
Sáng
nay Chúa Nhật, tôi thức dậy thật sớm bởi những tiếng nổ rất lớn của đạn đại
pháo mà cả hai bên đang thay nhau bắn vào nhau; cùng hòa nhịp với tiếng súng
của chiến tranh là tiếng chuông thanh bình của nhà thờ chánh tòa đang đổ liên
hồi, mời gọi các con chiên đến dự lễ ngày Chúa Nhật, trời vẫn còn lờ mờ tối,
hơi lạnh và sương đêm vẫn còn đọng lại quanh nhà và vạn vật, tôi rủ Hằng cùng
tôi đi lễ, dù Hằng là người ngoại đạo, buổi lễ sớm nhất của ngày Chúa nhật,
hai đứa co ro trong chiếc áo len đến nhà thờ, hôm nay thánh đường đông nghẹt
người, không còn chổ chen vào, làm như đây là buổi thánh lễ cuối cùng trong
cuộc đời mình nên ai cũng sốt sắng cầu xin ơn cứu rỏi, người ta đứng tràn cả
ra sân; im lặng lắng nghe đoạn phúc âm Linh Mục đọc; từng lời, từng chữ, và
vị linh mục giãng về đoạn Phúc âm đó “Ngày tận thế sắp đến, hãy dọn mình chờ
đợi như các trinh nữ cầm đèn chờ hoàng tử đến dự tiệc cưới... “ Phía bên
ngoài nhà thờ tôi chia lòng chia trí, nghe câu được câu mất vì tôi đang mãi
nhìn khung cảnh sáng dần khi bóng tối tan nhanh; phía bên kia đường là phố
xá, cửa hiệu,... người ta đang hối hã chất đồ lên xe, những chiếc xe nhà 4
bánh còn mới, mọi hoạt động diễn ra trong im lặng, hình như hôm nay là ngày
cuối cùng, là hạn chót của những người trong thành phố, những ai cố gắng tin
tưởng vào sự vững chắc của một quân đội hùng mạnh cứ chần chừ, nấn ná ở lại,
hôm nay cũng nản lòng đành vội vã thu xếp ra đi. Thành phố đang hấp hối, đang
giẩy chết. Tiếng súng nổ hôm nay nghe gần hơn hôm qua, liên tục, dồn dập,
thúc hối, với ánh sáng mờ mò của một ngày mới, với không khí lành lạnh cùng
những bóng người đi lại hối hã, cấp bách… chừng đó cọng lại vẻ nên một bức
tranh sống động nhưng đầy sự hãi hùng.
Rồi thì buổi lễ cũng chấm dứt linh mục ban phép lành cho
con chiên, chưa bao giờ chúng tôi nhận lảnh phép lành đầy ý nghĩa và thành
kính như hôm nay. Trời hửng sáng tôi và Hằng ra về, Hằng ao ước “giá như mọi
chuyện chỉ là giấc mơ, một ngày cũng như mọi ngày hai đứa sẽ vào quán Cao
Nguyên ăn Pate chaud và uống một ly cà phê sữa nóng riêng tôi thì tôi rất
mong được một chăm sóc ân cần, một mắt nhìn tha thiết, một bàn tay ấm áp của
anh ấy nắm lấy tay tôi như ngày xưa khi hai đứa còn bên nhau, mà một thời như
từ xa xôi lắm tôi đã từng được nhận bằng cả trời hạnh phúc… Khi tôi và Hằng
về đến nhà thì Ngân và Hoa đã nấu xong một nồi cháo với một nồi cơm, bà An
nói ăn cháo xong sẽ lên đường, còn cơm bà nắm từng nắm đem theo ăn dọc đường
với muối mè.
Khi
chúng tôi ra khỏi nhà, những tia nắng đầu tiên của một ngày mới đang nhảy
nhót trên những ngọn thông già cao vút. Trời hôm nay đẹp quá, cái đẹp làm
nhức nhối lòng tôi, phố dần vắng thưa người qua lại vì mọi người đều dồn đến
Ban Quân Vận. Trong lúc chờ đợi chúng tôi được nghe kể đủ thứ chuyện ly kì
rùng rợn, người ta bớt một thêm hai để câu chuyện của mình tăng thêm phần hấp
dẫn, ai cũng muốn có một mẩu chuyện nào đó liên quan đến cuộc di tản này để
kể, có người còn cho mình là người trong cuộc. Tôi cảm thấy vừa hiếu kỳ vừa
mệt mỏi, mãi đến 3 giờ chiều chúng tôi mới được lên xe, chiếc GMC chở đầy
người và đồ đạc, phía trước cabin ngoài anh lính tài xế ra còn có một sĩ quan
đi theo ngồi bên cạnh để hộ tống, 3 giờ 15 chiều xe lăn bánh chúng tôi thở
phào nhẹ nhỏm sung sướng vẩy tay chào những ngươi còn lại. Tôi ngồi chổ sau
cùng trên cái vali của mình lưng đưa về phía trước, ngồi như thế này tôi chỉ
nhìn được phía sau, đây là một chổ ngồi tốt không bị che chắn bởi ai cả, tầm
mắt của tôi bao quát cả một không gian rộng lớn và nhìn được phong cảnh chạy
lùi về phía sau. Thành phố ở lại trong tiếng súng và sự vắng vẻ, còn chúng
tôi ra đi trong ồn ào nhưng trật tự, chúng tôi đang đi về miền tự do; Sẽ
chẳng bao giờ tôi trở lại nơi chốn này, nơi đầy ắp kỷ niệm của một cuộc tình
đắm đuối mà với tôi mỗi hơi thở là một nhành cây ngọn cỏ, mỗi tiếng cười là
một tầng sóng vang vọng mãi trong không gian, mỗi bước chân là một hằn sâu
dấu vết trên từng con đường bụi đỏ và nước mắt là nổi khổ đau tận cùng của
một hạnh phúc đã vuột mất.
Đoàn
xe nối đuôi nhau dài dằng dặc; nhìn trước không thấy đầu nhìn sau chẳng thấy
đuôi, một dòng xe uốn lượn ngoằn nghoèo nối theo nhau như một con rắn khổng
lồ đang bò quanh co. Tốc độ xe khi ra khỏi thành phố nhanh hơnmột chút, từ
đây có 2 ngã đường về Nha Trang đó là: một theo QL 14 tách qua thị trấn Chư
Srê xuống quận Cheo Reo (còn có tên gọi là Aynpa) đến Phú Bổn rồi về Tuy
Hòa, và một: theo QL 19 đến Suối Đôi qua đèo Măng Yang tới thị trấn An Khê
rồi Song An trở xuống hướng Qui Nhơn từ đó theo QL1 qua Phú Bổn đến Tuy
Hòa, sau đó là về đến Nha Trang, đoàn xe này đang đi theo hướng QL 19 (vì nếu
theo QL 14 sẽ đến ranh cao nguyên Ban mê thuột, nhưng vùng đất này lại đang
giao tranh ác liệt. Nếu VC chiếm được BMT họ sẽ tràn về đồng bằng mạnh như
thác đổ). Ông Thiệu thì tuyên bố: “Phải tử thủ BMT” Sẽ có không biết bao
nhiêu người lính phải chết vì cái lịnh Tử thủ quái ác này? Ở thị trấn Pleime
đang đánh nhau dữ dội, những tin tức này chúng tôi biết được mỗi khi đoàn xe
bị nghẻn lại vì một lý do nào đó. Tâm trạng của chúng tôi bây giờ ổn hơn được
một chút khi càng lúc xe càng chạy xa vùng nguy hiểm, theo dự đoán của các
anh sĩ quan bảo vệ người dân di tãn thì không chừng ngày mốt; tức ngày 18 - 3
- 1975 chúng tôi sẽ về đến Nha Trang, nhưng với điều kiện đoàn xe không bị
nghẽn.
Khoảng
6 giờ chiều chúng tôi đến gần thị trấn MangYang, xe ngừng lại. Nơi đây chúng
tôi thấy có thật nhiều lính dù, thủy quân lục chiến, bộ binh, biệt động quân…
họ tràn cả ra đường, nét mặt đầy căng thẳng, có anh đốt điếu thuốc lá Quân
tiếp vụ rít một hơi thẩy xuống đất đưa chân mang đôi bốt đờ sô dí mạnh xoáy
xoáy cho điếu thuốc nát bấy xong lại đốt điếu khác rồi thẩy xuống… cứ thế mắt
không nhìn một ai, không nhìn một chổ nào nhất định, một số sĩ quan và lính
đang cố gắng tìm cách cho đoàn xe đi tiếp, khi có xe nào chết máy lập tức
được đẩy qua một bên còn số người trên xe đó dồn vào những xe khác. Đoàn xe
tiếp tục chạy, trời tối nhanh tất cả các xe phải bật đèn lên, ánh đèn pha của
đoàn xe nối đuôi nhau sáng lóa lấp lánh dài vô tận trong đêm đen hun hút,
tôi ví von gọi đó là con rắn đom đóm khổng lồ.
Nơi đây tiếng súng và tiếng pháo kích nghe như gần ghê
lắm, mang đầy sự đe dọa. Trong giây phút ngắn ngủi lạ kỳ này tự nhiên tôi
quên đi sự sợ hãi của mình mà để cho hồn tan biến vào không gian, lòng rung
động sâu xa đầy bí ẩn, tôi muốn mình được tan chảy, hòa lẩn vào trong màn
đêm sâu thăm thẳm này….
Bất
ngờ xe đươc lịnh dừng lại tắt hết đèn tất cả chìm vào màn đêm âm u lạnh lẽo,
có tiếng người nói bên xe:
-
Đồng bào cố gắng ngủ một giấc mai đi tiếp, đi vào ban đêm nguy hiểm lắm,
chúng ta đang ở gần thị trấn Mangyang vẫn chưa tới được chân đèo Măngyang…
cũng còn khá xa .
Anh
Đạt hỏi thăm:
-
Mình đi theo lộ trình nào vậy anh?
-
Có hai ngã về Nha Trang: nếu đi từ Ban Mê Thuộc thì sẽ đổ xuống Qui
Nhơn rồi từ Qui Nhơn về đến Phú Bổn, qua Tuy Hòa là đến Nha Trang,
còn đi từ Pleiku sẽ phải qua đèo Măngyang, cũng đến Phú Bổn vậy.
Hiện giờ đoàn xe từ Qui Nhơn đổ về cũng nhiều lắm…bây giờ thì
đoạn đường nào trống là cứ cho xe chen vào…nhưng,,,không còn con
đường nào trống cã.
Tôi
nhắm mắt cố ngủ nhưng sao mà khó quá, vì phải ngồi co ro hai chân gập lại
sát vào người nên mỏi nhừ, trong sự thinh lặng của đêm tối, đất trời là một
màu đen giao hòa nhau mà lòng tôi thì ngổ ngang trăm mối, làm sao phân tích
được tâm trạng của mình lúc này? Nổi nhớ nào xoáy buốt làm cho tôi đau đớn
nhất đây?: Nhớ cha mẹ, anh em, hay nhớ anh Bang? giờ này anh ấy đang làm gì?
ở đâu? anh có kịp lên máy bay để đi, hay đã tan xác bởi một trái pháo nào
trong phi trường? Nếu còn sống anh có tưởng tượng nổi tôi đang ở đây lo sợ
và chậm rì trong từng phút từng giây chạy trốn. Không hiểu sao tôi không
giận anh ấy như những tháng ngày qua tôi đã giận; đã buồn, mà tôi chỉ cảm
thấy rất lo cho anh ấy, lo còn hơn cả lo cho tôi. Tôi nhìn lên bầu trời trên
cao, không thấy gì ngoài những vì sao đang lấp lánh, đêm càng về khuya trời
càng lạnh, người ta chen chúc nhau trong những chiếc xe chật hẹp tù túng,
thỉnh thoãng có tiêng khóc của trẻ nít rồi tiếng ho tiếng đằng hắng của ai
đó, những âm thanh này cho chúng tôi biêt sự tồn tại của mình trong đêm nay,
“Thủy ơi cố ngủ đi đừng nghĩ ngợi lung tung ngày mai trời lại sáng,” Đêm nay
sao dài quá.
_________________________
... CÒN TIẾP ...
... CÒN TIẾP ...
. Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn Newvietart.com Khi Trích Đăng Lại .
CHÂN MỀM TRÊN ĐÁ
KỲ
THỨ 2
17/03/1975
Hình như tôi có “ngủ ngồi “được một
chút, khi giật mình thức dậy tôi có cảm giác mình đang trôi đi, thì ra xe đang
chạy, trời chưa sáng hẳn vạn vật còn bàng bạc hơi sương. Chị Bích nhìn đồng hồ
đeo tay: 5 giờ sáng rồi. Xe đi qua thị trấn Măngyang, một thị trấn nghèo nàn hai bên
đường là những căn nhà thấp nhỏ bán đủ thứ lặt vặt, người dân thị trấn nhìn
đoàn người chúng tôi bằng những đôi mắt tò mò đầy ái ngại, cũng có vài gia đình
đang đón xe để đi, họ được chia ra và xếp vào những xe có thể nhét được 1 hay 2
người. Quãng đường này xe chạy chậm lắm và thường bị ngừng lại, bên kia đường
ở khoảng đất trống có một cái lều bạt mang dấu hiệu cứu thương; vài anh lính
chạy ra chạy vào lăng xăng hối hả, một ông sĩ quan mặc áo blue trắng đó là bác
sĩ quân y, ông ta xách túi cứu thương ra khỏi lều đưa tay áo lau mồ hôi trán,
chúng tôi hỏi thăm họ cho biết có một chị trở dạ sanh con trên đường di tãn, bà
An lắc đầu thở dài nói với chị Bích: “tội nghiệp quá”.
Tin tức ở phía trước chuyền ra sau
không mấy tốt: “VC đang đánh đâu đó phía bên hông,” mọi người xanh mặt lo lắng
khi tiếng súng nghe gần lắm rồi, đạn pháo lại càng dồn dập hơn, đoàn xe thì vẫn
chạy rất chậm mà xe càng chạy chậm nổi lo sợ càng dâng cao. Sáng nay trời không có nắng và hơi se lạnh, xe “trôi qua
”những buôn thượng nghèo nàn hiu quạnh chỉ lèo tèo mấy nóc chòi tranh, một
nhóm nhỏ người thượng đen đúa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn xà rông, con nít ở
truồng; họ đi thành hàng dọc người nọ nối tiếp người kia trên mặt đầy nét
khắc khổ, họ nhìn chúng tôi với cái nhìn ngơ ngác, lạ lẩm. Qua khỏi thị trấn
Mangyang đoàn xe ngừng lại khá lâu, chúng tôi được phép xuống xe để “vệ sinh
cá nhân…” vươn vai, duổi chân. Bà An biểu Ngân phát cho mỗi người một nắm cơm
chấm với muối mè, ăn cũng ngon, mấy đứa con của chị Bích rất ngoan, không khóc
nhè hay đòi hỏi gì cả, bé Ly Ly mới mười tháng tuổi bình yên rúc vào ngực mẹ
không biết sợ hãi là gì, bà An không cho chúng tôi ăn nhiều bà lo xa: phải dè
xẻn, vì sợ ngày đi còn dài…, được lệnh chúng tôi lên xe đi tiếp, dù ngồi chung
một xe nhưng những người thuộc gia đình khác với gia đình chị Bích không ai nói
chuyện với nhau, người nào cũng mang một tâm trạng nặng nề cùng với nổi lo
riêng, theo sự phỏng đoán của anh Đạt - là thiếu úy bộ binh - thì đoàn xe này
sẽ đến Suối Đôi, rồi từ Suối Đôi qua đèo MăngYang, sau đó đến Song An (giáp
ranh Qui Nhơn) tiếp đến Phú Bổn tới Tuy Hòa rồi từ Tuy Hòa về Nha Trang,
đó là lộ trình từ Pleiku về Nha Trang, còn từ Ban Mê Thuộc về Nha
Trang thì theo lộ trình khác là đổ xuống hướng Qui Nhơn, qua Phú Bổn,
đến Tuy Hòa rồi về Nha Trang nhưng hình như mọi ngã đường đều bị
nghèn nên đoàn xe cứ trôi đi không còn phương hướng, không biết Ban mê
Thuộc còn hay mất?, tôi hỏi anh Đạt:
Vậy mình đến cầu Suối Đôi chưa anh?
Anh Đạt nhún vai:
- Nếu cứ bị nghẽn như thế này thì...
biết đến bao giờ vì Cầu Suối Đôi cũng còn xa...
Xe chạy được một đoạn ngắn thì dừng lại, những chiếc GMC đậu
san sát nối đuôi nhau chỉ cách nhau chừng nữa mét. Lúc này là 7 giờ sáng,
chúng tôi xuống xe đi bộ một đoạn ngắn tìm một lùm cây ven đường để giải quyết
việc riêng… lúc quay trở lại gần xe của mình, tôi gặp một số học trò có cả Dũng
em họ tôi con của cô (em kế cha tôi) là Thiếu úy cảnh sát, Dũng yêu Hiền; cô
con gái của ông Vơn kế toán trường tôi, Dũng thường đến trường tôi
thăm người yêu, không ngờ hôm nay lại gặp nhau nơi đây, mừng quá nhưng chỉ
hỏi thăm nhau được vài câu ngắn ngủi mà thôi, gặp nhau trong hoàn cảnh
chung như thế này chúng tôi cảm thấy thật bùi ngùi, cậu bé Ân –học sinh lớp 9
của tôi nói đùa:
Cô ơi, hôm nay nhóm em phải nộp cho
cô bài thuyết trình “Tình yêu qua ca dao Việt Nam,”mà… tụi em quên làm bài rồi,
cô cho mhóm em hẹn lại bữa khác nha cô.
Tôi cười:
- Đến Nha Trang phải nộp bài cho cô,
không được quên.
Một em khác hỏi:
- Thưa cô, cô dạy Địa lý vậy đây là
đâu hả cô?
- A, đây là nơi chúng ta gặp nhau
bất ngờ nhất, bi đát nhất và có cùng chung hoàn cảnh, số phận như nhau.
Chúng tôi cùng cười, các em chỉ cho
tôi thấy xe các em đi ở trước xe tôi chừng 5 chiếc, cùng chạy trốn mà bây giờ
mới gặp nhau, tôi hỏi thăm về Lý, cậu học trò giỏi văn nhất lớp 9A1 và bàng
hoàng sững sốt khi nghe câu trả lời “Lý vào mật khu trước đó mấy ngày, cha của
Lý là VC nằm vùng,” tin này cũng chỉ được chuyền miệng nhau giữa các em học
sinh lúc các em còn ở Pleiku. 8 giờ sáng đoàn xe đi tiếp, hôm nay chúng tôi
không còn được yên tâm như hôm qua, vì súng nổ rất gần và tiếng đạn pháo kích
ầm ầm đều đặn dội rung cả mặt đất, những viên Sĩ Quan và lính bộ binh, Quân vận
áp tải đoàn xe di tản đang cố trấn an mọi người, họ có vẻ lo lắng cho đoàn xe
di tản này ghê lắm, gặp những ca bịnh bất ngờ, nguy kịch, lập tức xe phải tấp
ngay vào lề trống, các anh lính quân y căng lều bạt cứu chữa cấp tốc, các bác
sỉ quân y và y tá đều tận tụy chu đáo Không đơn giản là đi một mạch về đến nơi
đã định, Trong xe có tiếng bà An khóc, ông An ôm bà dổ dành, chị Bích thở dài
lo cho anh Thi, chị sợ hãi vì 4 đứa con của chị còn quá nhỏ, nhất là bé Ly Ly…
còn tôi, tôi chẳng nghỉ ngợi gì được nữa, đầu óc tôi đặc cứng.
9 giờ sáng đoàn xe đến Phú Bổn
thì ngừng hẳn, chẳng thể nào nhích lên được nữa, tất cả bị dồn cứng
lại, bây giờ thì tiếng nổ nghe sát ngay bên lổ tai và thấy rỏ những cụm khói
đen bốc lên cùng ánh lữa của đạn pháo, như thế có nghĩa là chúng tôi đang chạm
người vào cuộc chiến này rồi đây, không phải chỉ là nghe trên radio hay đọc
trong các tờ báo, hình như bên ta không phản công thì phải, tôi hỏi một anh Đại
úy trên ngực áo mang bản tên Cần: phía bên nào đang bắn dử vậy anh? Anh cho
biết phía bên vc đang pháo kích vào đoàn xe của dân di tản, họ cố chặn dân lại
không cho đi, bên Cộng Hòa không dám phản công vì sợ vc trả đũa bắn ngay vào
đoàn xe chở dân. Rất gần phía trước xe chứng tôi chừng 3 chiếc, một tiếng nổ
rất lớn… “Ù… ẦM…”; Sau tiếng nổ là những mảnh sắt tung lên trời cùng với khói,
lữa. Rồi… chéo.. ầm.. ở phía sau xe chúng tôi… chéo… ầm… phía bên hông,... sau
mổi tiếng nổ lớn là một chiếc xe bị hất tung lên cao vở vụn ra từng mảnh kèm
theo khói và lửa, một khung cảnh hổn loạn kinh hồn diễn ra, anh Đạt hối cả
nhà nhào ra khỏi xe và nằm sấp xuống ngay, hai tay ôm đầu kéo sát ngực lưng
đưa ra, vừa im tiếng nổ chúng tôi nhỏm dậy chạy theo anh Đạt,... lại: chéo… ầm…
Ôm đầu nằm xuống... trước mặt, sau lưng, bên trái bên phải, đâu đâu cũng có đạn
pháo tung trời, tất cả hoãng loạn, nhốn nháo, mọi người cố tìm đường chạy cho
nhanh, cho thoát khỏi nơi này, tiếng khóc la gào thét vang trời, lại một tiếng
nổ lớn… “Chéo…ầm …,” chiêc xe chúng tôi vừa nhảy xuống bỏ chạy lúc nảy bị trúng
ngay trái pháo của vc, nổ lớn hất tung lên trời, tôi trố mắt nhìn; nó tan ra
từng mãnh, có tiếng đứa học trò nào đó hét lên “: xe cô Thủy kìa, cô Thủy chết
rồi …” Lạy Chúa, Chúa đã cứu chúng con. . chúng tôi thoát chết trong gang tất,
trong đường tơ kẻ tóc. Cả gia đình nháo nhào chạy theo anh Đạt và Khải, chen
chúc nhau, níu lấy nhau vì sợ lạc nhau, tất cả đoàn người di tản đỏ dồn về
giòng sông nằm bên trái, hàng ngàn người nhào xuống sông, cố vượt qua bên kia
sông mà không ai thèm biết sông sâu hay cạn, cứ chạy bừa xuống.
Chúng tôi
đang ở đầu cầu Suối Đôi - Phú Bổn - đoạn đường cây số 168, tỉnh lộ số 7,
chung quanh tôi là cả một rừng người nhốn nháo hổn loạn, kẻ chạy lui người
chạy tới; mẹ tìm con vợ gọi chồng loạn xạ cả lên, họ gào thét la khóc réo
gọi tên nhau… đôi mắt họ mở lớn thất thần căng ra hết cở như muốn bị
rách toát để tìm nhau. Không còn có âm thanh nào kinh hãi bằng thứ âm thanh
này, tiếng súng vẫn thản nhiên nổ rền không ngớt hòa chung với tiếng la hét kêu
khóc vì đau đớn, lẫn lộn trong máu là xác người nằm chồng chất lên nhau,
có người vừa mới té xuống chưa kịp chổi dậy thì bị người khác dẩm
đạp lên mình. Một bức tranh của chết chóc, một âm thanh của đạn pháo hòa
chung với tiếng người rên xiết, kêu gào. Khúc sông cạn nước nhuộm đỏ màu của
máu trở thành giòng sông máu, chen chúc giữa xác người chết là nhũng bước
chân lội bì bỏm cố vượt qua được bên kia sông KHÔNG AI CÒN ĐỦ TỈNH TÁO ĐỂ nghĩ
rằng bên này sông hay bên kia sông đều như nhau, tất cả cố mà chạy để mong mình
được thoát, chạy quáng quàng, chạy thục mạng, vắt giò lên cổ mà chạy. Ngay từ
chổ chiếc xe mà chúng tôi đi bị nổ tung thì hầu như mọi ngã đường
về Nha Trang đều đã bị chận lại hoàn toàn, tấc cả các xe bị dồn
cứng không còn lối thoát, mạnh ai nấy nhảy xuống xe mà chạy.
Chúng tôi bám vào nhau lội xuôi theo
dòng sông, đạn bay chéo chéo trên đầu, đạn rớt lỏm bỏm sau lưng, đạn rơi vô
tình trước mặt; có vô số người trúng đạn ngã xuống, máu hòa vào nước nhuộm đỏ
cả dòng sông, máu thấm vào đất, máu bám vào mổi bước chân của người
còn sống đang thốn chạy, máu làm tôi hoa cả mắt, xác người chết
nhiều quá làm đầu tôi choáng váng đảo điên. Nhưng bổng nhiên tôi không
còn sợ hải nửa bởi vì tôi đang ở trong nó, hòa nhập vào với nó, điều đáng chú ý
bây giờ là sự sống còn trước mặt, phải cố mà giử lấy nó. Chúng tôi dẫm lên xác
người mà chạy, chúng tôi lội trong máu mà đi, mỗi người lớn chúng tôi nắm chặt
tay một đứa con chị Bích, chị Bích ôm cứng bé Ly Ly, vạch vú cho bé ngậm, với
núm vú và hơi ấm của mẹ, bé bình yên ngủ say. Ông An với Minh dìu bà An mỗi
người một bên, vì lúc này toàn thân bà mềm nhũn, hai chân bà cứ ríu lại với
nhau, sự sợ hải làm bà như bị tê cứng.
Hai lổ mủi của tôi như bị nghẹt lại không thở được
vì mùi tanh của máu làm cho tôi loạng choạng suýt ngả xuống trong khi
sau lưng tôi dòng người đang lấn tới sẳn sàng vô tình dẩm lên tôi.
Khải vội vàng kéo tay tôi lôi đi xềnh xệch, chiếc va li của tôi bình
thường nặng trỉu nhưng sao lúc này tôi lại thấy nhẹ tênh. Nhờ cái
nắm tay của Khải giật mạnh kéo tôi đi mà tôi giật mình bừng tỉnh cơn
mê. Tôi nhủ thầm: phải cố tỉnh táo để thoát ra khỏi nơi kinh khủng
này, phải mạnh mẽ lên để lội vào trong máu mà ra khỏi máu, phải
vững đôi chân khi dẩm lên xác của người chết để được sống còn.
Tôi đã tỉnh táo hơn và chạy
nhanh theo Khải, cả nhà chị Bích không ngớt gọi tên nhau, níu chặt tay
nhau để không bị lạc, mấy đứa bé vừa sợ vừa mệt nên đôi chân cứ va
vấp vào nhau, anh Đạt, hét to bắt mổi người lớn cỏng ngay một đứa
bé trên lưng, tội nghiệp Ty út tay cứ níu chặt vào lưng Minh trong khi
Minh còn phải cùng với bố dìu bà An kéo bà chạy theo mọi người.
Thấy con nít ngã chết nhiều quá nên chị Bích khóc lớn và ôm thật
chặt bé Lyly trong lòng.
Tôi nghe tiếng anh Đạt hét lớn:
- Mọi người phải hết sức cố
gắng để vượt qua được bên kia sông.
Không thể nào diển tả được cảnh
tượng lúc này, nó quá kinh khủng, súng vẫn nổ không ngớt quanh chúng tôi, người
ta nhốn nháo tìm nhau bất chấp bom đạn; trong lúc hổn loạn tôi thấy một chị còn
trẻ, một tay bồng đứa bé nhỏ xíu, tay kia lôi xềnh xệch một đứa, vừa chạy vừa
khóc gọi tên chồng, vừa gọi mẹ thì “ đoành” một tiếng nổ lớn và…cả ba
mẹ con ngả xuống nằm chồng lên nhau. Một bà già chống gậy quờ quạng réo
tên con trai, bà đang loay hoay thì… chíu…bà ngã úp xuống cùng với cây gậy, máu
từ lưng chảy ra cho dòng sông thêm đỏ... người chết sao mà nhiều quá, cứ thế;
người ta cuống cuồng dẫm lên tất cả mọi thứ để mà chạy, kể cả xác người.
Anh Đạt dẫn đầu, bắt mọi người khum lưng
xuống len lỏi trong những lùm cây ven sông, được một đoạn khá xa anh lội qua
bên kia sông, chúng tôi chỉ biết đi theo anh, cũng may đây là con sông cạn; vì
chưa đến mùa mưa, nước sông chỉ cao ngang ngực, tôi đội cái vali trên đầu,
Ngân, Hoa, Thắm…mỗi đứa một tay xách đồ một tay nắm tay đứa khác, Khải cõng Ty
Anh trên vai Minh cõng Ty Em, anh Đạt bồng My Cò trên tay… khi chúng tôi đã qua
được bên kia sông, anh Đạt đẩy mọi người vào một lùm cây rậm núp trong đó;
tiếng súng lúc này đã dịu lại, không còn rát bên tai và cũng không dồn dập như
trước, có lẽ chúng tôi đã vượt qua được vùng giao tranh ác liệt; vùng đất của
sự sống và cái chết sát bên nhau, trộn lẩn vào nhau, không rạch ròi phân định.
Chúng tôi ngồi nghĩ mệt và định thần lại, lúc này mọi người mới nhìn nhau; chị
Bích đếm từng người: “Ơn trời đủ cả;” Hằng bóp tay tôi: “không biết anh Sơn thế
nào?”. Bà An khóc thút thít, Khải cằn nhằn: “Mợ đừng làm chúng con rối trí thêm
nữa”. Chúng tôi nghe có tiếng chân bên ngoài bụi cây, thì ra rất nhiều người cũng
qua đươc bên này sông, có 2 anh phi công xin nhập đoàn với gia đình chị Bích,
họ vẫn còn cầm súng trên tay, và trên người vẫn còn mặc bộ đồ bay, anh Đạt kêu
họ phải bỏ súng, cởi bộ đồ pilot để mặc đồ dân sự, Khải lôi trong sacmarin của
gia đình lấy ra 2 cái quần của ông An đưa cho họ, một người tên Hưng một người
tên Phi; ngồi nói chuyện với nhau, chúng tôi biết là mình đang ở phía trên của
giòng sông Êpa, và vượt qua bên kia suối Đôi, trong lúc hổn loạn chúng tôi đã
chạy ngược về Kontum thay vì men theo QL để đến đèo Măngyang, bây giờ thì QL
này đã trở thành Đại lộ kinh hoàng rồi. Anh Đạt là sĩ quan bộ binh, anh am hiểu
về địa hình, địa thế, anh và Khải từng quen với những cuộc hành quân, bèn mở
một cuộc họp nhỏ để phân chia công việc cho từng người; Đạt và Khải dẫn đầu
đoàn người, chỉ huy mọi việc, ông An chỉ có một việc để làm là dìu đỡ bà An;
Ngân, Hoa lo về việc ăn uống, Minh, Ty, Kiều, Đạt, Khải mang đồ đạc của cả nhà,
- có thêm Đạt Nhỏ là bạn của gia đình chị Bích ( vì cùng tên với anh
Đạt –em trai của chị Bích – lại nhỏ tuổi nên gọi là Đạt Nhỏ) đi theo
gia đình chị - giống như tôi - phụ mang đồ đạt; về phần chị Bích, Hằng,
Thủy, Thấm, mỗi người giữ một đứa nhỏ con chị
Theo lời anh Đạt thì chúng tôi không thể nào đi theo đường
cái quan được; vì đi như thế là rất nguy hiễm, dể gặp vc hoặc lọt vào ổ phục
kích. Nơi đây gần đèo Măngyang, chẳng biết An Khê còn hay mất? chỉ là suy đoán
vậy thôi; vì việc đòan xe bị pháo kích dữ dội và bị chận đứng ở Phú Bổn cùng
với cảnh người dân bỏ chạy hoảng loạn vừa rồi, thêm vào đó là những tràn đạn
pháo kích khủng khiếp của vc nhắm vào đoàn xe GMC chở người di tãn... biết bao
nhiêu chiếc GMC bị hất tung lên trời tan tành thành những mảnh vụn cùng với xác
người... thì An Khê bị mất rồi, anh Đạt quyết định không đi theo đèo Măngyang
mà sẽ quay trở lại đoạn đường đã đi qua, mặc dù đi theo lộ trình như thế là rất
nguy hiễm, cũng có nhiều người quay trở lại như chúng tôi sau khi tiếng đạn
pháo kích và tiếng súng lơi đi một chút; nó không còn gắt gao, dồn dập như lúc
nảy, những nhóm người họp lại với nhau thành một đoàn khá đông; chúng tôi tiếp
tục men theo những lùm cây mà đi; làm như nó che chở được cho chúng tôi. Tiếng
súng vẫn còn rải rác, tiếng pháo kích thưa dần; bây giờ đã trưa lắm rồi, mặt
trời ở ngay trên đỉnh đầu, những vắt cơm bà An nắm lúc ở nhà giờ đã khô, nhưng
đói quá thì vẫn cứ ngon như thường, mọi người kiếm chổ nghĩ, không ai muốn nói
gì trong lúc này. Bổng nhiên bà An khóc, ông An nhỏ nhẹ vổ về bà, Khải nóng
tính cau mặt gắt nhỏ:
- Mợ cứ làm cho chúng con rối ruột
thêm lên, chúng con đã có đứa nào chết đâu mà mợ khóc.
Chị Bích thở dài, còn tôi; tôi vẫn
có cảm giác mình đi theo gia đình chị như một nhánh cây tầm gởi nên lắm lúc
cũng muốn khóc như bà An, mà không dám, sợ làm mọi người khó chịu. Bổng nhiên
giữa khoảng đất trống có tiếng một bé gái kêu khải – vì Khải ngồi phía ngoài
rất dễ thấy:
- Chú ơi;
chú có thấy ba má cháu đâu không?
Câu hỏi ngây thơ của bé làm cho tôi
xúc động muốn khóc, giữa một nơi như thế này và vào lúc này làm sao biết được
ba má cháu là ai, cháu bé đứng bơ vơ, sợ hãi và run rẫy, Khải ngoắc bé lại, nó
chỉ chờ có thế lật đật vạch lùm cây chui vào. Chị Bích hỏi:
- Cháu con
ai?
- Con của ba má, ba con dẫn cu tí,
má ẳm bé xíu, ba má chạy nhanh lắm cháu nắm tay ba chạy một hồi rồi không thấy
ba má đâu cả, cô chú tìm ba má cho cháu với.
Cháu bé òa khóc nức nỡ, Anh Đạt và
Hằng dổ dành:
- Nín đi
cháu, cháu phải biết là các cô chú không thể nào tìm ba má cho cháu được
Hình như
giữa sự sợ hãi và nguy hiểm mà bé đang phải chịu, bé khôn hẵn lên, nó năn nỉ:
- Cháu sợ
đi một mình lắm, cô chú cho cháu đi theo với.
Tôi nhìn kỷ con bé, nó chỉ độ 6, 7
tuổi là cùng, tóc cắt ngắn kiểu búp bê, đôi mắt to tròn, đen láy, xinh xắn,
đáng yêu nó mặc 1 bộ đồ bộ cổ bèo, bằng vải hoa xanh đỏ li ti, nhìn nó lấm lem
nhếch nhác Hằng thở ra:
- Chăm cho 4 đứa cháu của mình khỏi
lạc nhau đã mệt lắm rồi, giờ thêm con bé này, chịu nổi không đây?
Chị Bích đã làm mẹ nên lòng chị bao
la hơn:
- Tội nghiệp cháu bé, nó nhỏ bằng Ty
Em nhà mình, đem cháu theo với, mỗi người gắng thêm một chút.
Tôi thấy hoàn cảnh của bé cũng giống
mình, khác một chút là tôi không bị lạc mất cha mẹ, nhưng cũng đang nương tựa
vào gia đình chị... tôi không dám nói gì. Có lẽ ba má và 2 em của bé đã chết
banh xác rồi, ai mà biết được. Tôi hỏi bé tên gì? nhà ở đâu, đi học chưa? bé
trả lời một mạch: “Con tên Lan, nhà ở Kontum, học lớp một;” Chị Bích biểu Ngân
ngắt cho bé một miếng cơm, ăn xong bé xin thêm vì: “ ít quá à, con ăn không
no.” Hằng vuốt tóc nó, giải thích cho nó hiểu là: “ không đũ cơm để được ăn
no.” Bây giờ gia đình chị Bích có thêm bé Lan, đoàn người trong nhóm lên đến
con số 20. Anh Đạt nói chúng tôi nghĩ như vậy đủ rồi, phải đi tiếp vì đường còn
rất xa. Bé Ly Ly mở mắt nhìn mẹ, bé nhã núm vú mẹ ra toét miệng cười, rồi lại
rúc đầu vào ngực chị Bích, ngậm vú mẹ ngủ tiếp, chị Bích ứa nước mắt:
- Các em
à, ngực chị đau lắm, sữa chị cạn khô, bé Ly có no không đây?
Tôi thấy trong mắt anh Đạt, Khải,
Hằng… có những giọt nước mắt không rơi ra được, nó ngập ngừng đọng lại ở khóe;
xót xa và đau đớn. Riêng tôi, tôi đang có một tâm trạng khác, tôi cảm thấy gần
gũi với bé Lan hơn, tôi không ứa nước mắt cho chị Bích vì chị đang có cả một
gia đình bên chị, có bố mẹ, các em, các con chị, Tôi đang ứa nước mắt cho mình
và cho cả bé Lan. Quanh chúng tôi đoàn người vẫn rất đông, chia thành từng nhóm
nhỏ, như một cuộc cắm trại lớn, nghỉ ngợi lung tung, tự nhiên tôi bật cười, ai
cũng ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi; tôi nói cảm nghỉ của mình: “Hôm qua cả thành
phố rủ nhau đi du lịch, hôm nay cả thành phố cùng nhau đi cắm trại,” câu ví
von của tôi làm mọi người cười xòa, chị Bích khen: “giáo sư văn chương có khác,
Thủy nhận xét hay thật,” Hằng nói tôi có máu khôi hài,... ít nhất thì tiếng
cười cũng làm cho mọi người bớt căng thẳng.
Chúng tôi đi loanh quanh lẩn quẩn mãi mà chẳng tiến xa được
bao nhiêu, trời tối dần, chân đã mỏi, bụng lại đói, Anh Đạt loay hoay kiếm chổ
cho gia đình nghĩ qua đêm - lúc thu dọn đồ đạc để di tãn - chị Bích đem theo mấy
cái mền và mùng, dồn hết vào cái Sacmarin cùng với áo quần của cả gia đình chị,
số đồ dùng này sẽ xử dụng tạm thời khi về đến Nha Trang, bây giờ lấy ra xài ở
đây, thật tốt. Anh Đạt, Khải trải mấy cái mền ra giữa đất cho mọi người nằm.
Đêm nay chúng tôi ngủ giữa rừng trời với cái bụng trống rỗng và toàn thân thì
rã rời, hai chân nhức mỏi, trầy xước vì lúc bỏ chạy chúng tôi đã quẵng hết guốc
dép, cứ chân trần mà chạy cho nhanh, không còn biết đau khi chân mình dẫm lên
sỏi đá, gai góc, bây giờ thì… khi được nằm được duỗi thẳng đôi chân rướm máu
cảm giác đau buốt rát xé ruột gan chổi dậy hành hạ chúng tôi, thêm vào đó là
nổi hoang mang hồi hộp: Biết đâu lúc đang nằm đây; một quả đan pháo ham vui
rong chơi ghé thăm chúng tôi và nổ cái... ẦM... BANH XÁC... hết đường về. Đạn
pháo thì vô tình nhưng con người lại cố ý, còn chúng tôi là những người vô tội,
một bên kéo tay ngừơi ra đi một bên níu chân người giử lại... ở giữa là THẦN
CHẾT. Đêm yên lặng quá, thèm nghe một tiếng Dế rả rích trong không khí đầy mùi
thuốc súng nhưng dế cũng chạy trốn núp dưới hang, không dám thở mạnh nữa là
kêu cho con người nghe... Đang yên lặng như thế bổng nhiên có tiếng rên nho nhỏ
đau đớn, rồi thành từng tiếng khóc, ai đó xuýt xoa: “ôi đau quá ”, tôi rùng
mình; mới chỉ có một ngày sống giữa làn giao tranh, máu lữa, giữa tích tắc của
sự sống và cái chết; một ngày thôi mà sao dài như vô tận, tôi đã hòa mình vào
cuộc chiến, đã tan ra trong nổi sợ hải cùng với máu và cũng đã dẩm đạp lên xác
người mà đi, thế nhung tôi vẫn được sống, được nằm đây mà nghĩ ngợi và chờ đợi
giấc ngủ đến với mình; Cảm ơn Chúa đả cho chúng con qua được một ngày, còn bao
nhiêu ngày khác nữa, xin Chúa hảy gìn giữ con.
Đêm nay nằm giữa núi rừng xa lạ này,
bên dưới là giòng sông Ađun nhuộm máu, bên trên là người chết nằm ngổn ngang,
dù nhắm mắt cố hết sức để dổ giấc ngủ, nhưng những cảnh tượng và những âm thanh
của ngày hôm nay cứ luẩn quẩn trong đầu tôi, tai tôi vẫn còn nghe những tiếng
thét hãi hùng, mắt tôi vẫn còn thấy người mẹ trẻ ôm chặt trong tay tấm khăn
lông như ôm một đứa bé, phải chăng lúc bỏ chạy chị đã làm tuột mất con mình mà
không hay? còn nữa; người đàn ông tay dắt đứa con trai nhỏ, tay ôm bọc đồ; vừa
chạy vừa gào tên vợ và con gái; tôi cũng đã thấy một bà già chạy không nổi, cứ
té lên té xuống; khóc gào: con ơi chờ má với. trời ơi có người kéo lết một
chân, còn chân kia nát bấy cố tìm sự sống, sau đó gục xuống, ngất đi vì mất
nhiều máu và vì đau đớn, chắc bây giờ ông ta đã chết, không ai cứu ai trong lúc
đó, ai cũng phải tự cứu mình cái đả. Tôi rùng mình; giấc ngủ không đến được khi
hình ảnh nọ nối tiếp hình ảnh kia, như một khúc phim quay lại, chậm rãi, từ từ;
hiện ra rỏ rệt từng chi tiết; từng đoạn; kìa một cô gái rất trẻ với bàn tay
nát bấy vừa chay vừa ôm cánh tay bê bét máu, lảo đảo, liêu xiêu, kia nữa; ông
già đang bám vào vai tôi để vượt qua sông, ngang giữa dòng thì... chíu... ông
ngã xuống, tuột khỏi vai tôi, máu tuôn ra xối xã vì một viên đạn bay trúng ngay
đầu, âm vang của tiếng súng cứ xoáy trong tôi rền rĩ buốt tai, tôi không muốn nhớ,
tôi không muốn thấy lại những gì đã xảy ra, nhưng sao nó cứ đùa cợt với tôi mãi
như thế này? Những xác chết không nguyên ven, bầy nhầy trong vũng máu
và thịt da trộn lẩn cùng đá, cát. Có những em bé nằm chết mà như
đang ngủ trong vòng tay ôm của người mẹ cũng đã chết, máu nhuộm ướt
cả hai mẹ con, đau đớn thay khi tôi phải dẩm lên xác họ mà chạy.
Tôi cắn chặt môi, nước mắt tôi tuôn
trào như mưa; khi đã khóc được thỏa thuê, thì nổi buồn nhớ riêng tư lại ập đến:
giờ này cha mẹ tôi ở Nha Trang chắc là đang lo lắng cho tôi ghê lắm, đang như
người ngồi trên đống lữa mà chờ tôi về; cha mẹ có hối hận vì đã ra sức cấm cản
chuyện tình của tôi và anh Bang, đến nổi vì không thể rời xa anh ấy được mà tôi
đã nhất quyết lên “Phố núi cao ” dạy học, cho chúng tôi đươc gần nhau, hai
chúng tôi đã bàn tính với nhau là để tránh khỏi sự khắc khe của cha mẹ tôi vì
mỗi lần hai đứa hẹn hò gặp gở nhau mẹ tôi mà biết thì tôi lại bị ăn đòn, anh Bang đã xin chuyển lên Pleiku trước, chờ tôi học xong
năm thứ ba, đươc ra dạy bên ngoài - vì năm thứ tư tôi chỉ hoc hàm thụ và làm
luận án ra trường – tôi xin lên Pleiku dạy để hai đứa không phải khổ sở lén lút
gặp nhau nữa, cha mẹ tôi tưởng rằng anh vẫn còn ở Nha Trang nên khi biết tôi
xin đươc nhiệm sở ở Pleiku thì mừng lắm, nghĩ rằng đã chia cắt được chúng
tôi... nhưng rồi. . . nếu như cha mẹ đừng….; còn anh Bang nữa: anh có lo, có
nhớ, có chờ đợi tôi không? Mặc dù hai đứa đã xa nhau vì tự ái, vì ích kỷ và vì
đủ mọi lý do không đáng kể. Làm sao tôi quên được ngày đầu tiên đặt chân đến
Pleiku; khi máy bay đáp xuống phi trường Cù Hanh đìu hiu bụi mù, đất đỏ, anh đã
ngồi sẳn ở đó: ngoài thềm nhà chờ đợi của phi trường từ lúc nào, tôi bước xuống
máy bay mà hai chân như nhảy, anh ôm tôi trong vòng tay; chúng tôi đã có biết
bao ngày tháng hạnh phúc bên nhau, anh ở trong cư xá, tôi ở ngoài nhà trọ, anh
đi bay, tôi dạy học; bình yên và hạnh phúc, hai đứa bàn về đám cưới, về cuộc
sống chung sau này, ráng một vài năm để dành tiền tự lo cho đám cưới của mình
vì cha mẹ cấm cản sẽ chẳng lo cho đâu… Cuối cùng là tan vỡ, là nước mắt như
mưa, tôi khóc nhiều lắm và nghĩ sẽ chẳng còn nước mắt để mà khóc, nhưng bây giờ
tôi lại khóc, khóc cho những điều tôi đã chứng kiến ngày hôm nay, cho ngày mai
đầy bấp bênh, khốn khổ... cuối cùng thì tôi cũng ngủ được trong nước mắt, một
nguồn suối không bao giờ cạn...
18/03/1975
Một tiếng nổ lớn và gần làm chúng
tôi giật mình thức giấc, trời dần sáng, cuộc chiến lại bắt đầu sau một đêm tạm
lắng, chúng tôi vội vã thu xếp đồ đạc để mà chạy, tất cả những đồ dùng nặng,
cồng kềnh phải vất bỏ, tôi xé vội cái áo dài, lấy hai tà áo bó hai chân, cả nhà
làm theo tôi, chân ai cũng rướm máu, phải lấy áo bó chân mới đi tiếp đươc, chị
Bich biểu tôi phải vứt cái vali, chỉ lấy một ít áo quần và giấy tờ quan trọng
bỏ chung vào trong Sacmarin của gia đình chị, tôi thã trôi theo sông những đĩa
nhạc mà tôi vô cùng yêu quí, lòng xót xa đau đớn và đầy nuối tiếc như một phần
thịt da của mình phải bỏ lại. Hôm nay tiếp tục men theo giòng sông đỏ máu mà
đi, không thể chậm rải được, chúng tôi càng chạy, trời càng sáng, súng nổ càng
nhiều, mọi việc lập lại như ngày hôm qua, những người lính vừa chạy vừa cởi bỏ
bộ đồ lính đang mặc như chối bỏ thân phận mình, họ chỉ còn trên người cái quần
xà lỏn và cái áo may dô; súng, giày, quần áo lính vứt ngổn ngang, có người dẫn
theo vợ con cha mẹ, có người đi cùng với nhau. Nơi đây chúng tôi có cùng một
nét mặt: sợ hãi, kinh hoàng, và hốt hoãng… đoạn đường này xác chết nằm la liệt,
ngổn ngang đủ mọi tư thế; già có, trẻ có, và có cả những em bé, bao nhiêu là
người chết nằm chồng lên nhau... Anh Đạt lục túi một anh Thiếu úy bộ binh vừa
mới chết; máu vẫn đang còn chảy trên ngực; anh lấy được tấm bản đồ không còn
nguyên vẹn, nó bị rách một góc, nhưng đối với anh Đạt thì lúc này tấm bãn đồ
rất quí, rất cần thiết.
Súng lại nổ dữ dội, rền và rát bên
tai, lại cuống cuồng đua nhau mà chạy, bên vệ đường một phụ nữ nằm nghẽo đầu,
máu đầy người, chị chết rồi; trên bụng chị là một đứa con gái còn rất nhỏ
khoãng 5, 6 tháng nó đang ngậm vú chị nhay nhay cố nút sữa, tội quá; tôi đẩy My
Cò qua tay Kiều để bế đứa bé lên; bị giật ra khỏi vú mẹ bé khóc thét, có
tiếng hét vang lên rất lớn trong đầu tôi bắt tôi phải trả bé lại trên người
mẹ nó nhưng tôi không đành tâm thả bé xuống khi mẹ nó đã chết và nó thì còn bé
xíu; thật tình tôi muốn ẳm bé theo mặc dù... biết lấy gì nuôi bé đây? ngay cả
chính tôi còn chưa biết mình sẽ ra sao, vừa ngay lúc đó có một chị đang dáo dác
nhìn quanh mắt mở to tìm kiếm, sữa từ vú chị chảy ướt cả hai vạt áo, miệng chị
gào khóc thãm thiết: “anh ơi, con ơi;” tôi vội vàng ấn nhanh đứa bé vào tay
chị và cuống cuồng chạy theo Khải chỉ sợ bị lạc mất, chỉ trong một
tích tắc với phản xạ tự nhiên chị ôm ngay đứa bé vào lòng và chạy theo chúng tôi,
chuyện xảy ra chỉ trong một tích tắc như một cái chớp mắt mà thôi cứ
thế chúng tôi men theo giòng sông, lẩn trốn trong từng bụi cây hể ngưng tiếng
súng là chạy súng nổ dồn là núp, cố chạy và chạy làm sao cho xa được tiếng súng
càng xa càng tốt. Thật sự chúng tôi không biết mình đi được bao nhiêu mét đường
dài và bao nhiêu thời gian, điều cần biết nhất là cố gắng làm sao để được sống
còn.
Mãi tới lúc bên tai chúng tôi không
còn tiếng nổ rát và mùi thuốc súng khét lẹt ngạt cả mũi nữa mọi người mới
dừng chân, định thần nhìn lại quanh mình, hình như chúng tôi đã thoát ra khỏi
vùng giao tranh ác liệt nhất và đang ở giữa một khu rừng thưa có con đường mòn
phủ đầy lá vàng, cạnh khu rừng là giòng sông cạn thấy được những hòn đá dưới
đáy sông, tôi khát nước quá còn anh Đạt điểm danh từng người trong gia đình,
không thiếu một ai cả, bé Lan rụt rè nắm lấy tay tôi, tôi kéo bé ngồi xuống
bên cạnh mình, người đàn bà bồng đứa bé mà Khải trao cho lúc nãy đang ngồi
vạch vú cho đứa nhỏ bú; nó ngoặm lấy vú chị bú một cách say sưa ngon lành mà
không thèm nhận ra mùi hơi hay bầu vú không phải của mẹ mình, và người đàn bà
dịu dàng nhìn đứa bé ánh mắt chị đầy trìu mến yêu thương. Chị đã mất và chị đã
có – ngay lập tức – chị cũng không cần nhận ra đó có phải là con của mình hay
không? làm sao giải thích được điều kỳ diệu này? và có ai có đủ sự thông thái
để phân tích? Chỉ có Thượng Đế mà thôi. Tôi nhìn chị: nụ cười của chị ấm áp và
đôi mắt của đứa bé sáng rực; tôi đã cứu bé còn Khải thì cứu chị...
Không có nhiều thời gian để ngồi
nghỉ, anh Đạt bắt đi tiếp, càng xa nơi đây càng tốt, vẩn phải chui trong bụi
rậm, vạch lùm cây mà đi, hai tay, hai chân chúng tôi trầy xước rướm máu vì bị
gai đâm vào, giữa lúc này không ai xác định được phương hướng hay có sự lựa
chọn nào, cứ nhắm phía trước mặt mà chạy và cố tránh những nơi trống trải, khi
cảm thấy chung quanh mình đã có phần yên ắng, chúng tôi chui vào một lùm cây
ngồi nghỉ, bé Ly cựa mình muốn khóc chị Bích vội vã vạch vú dúi vào miệng bé,
chỉ sợ bé khóc làm lộ nơi ẩn núp. Đâu đây có tiếng nói lao xao giọng năng chịch
rất khó nghe, anh Đạt vạch lùm cây nhìn ra mắt anh mở lớn đầy kinh hãi miệng
anh há hốc anh lắc lắc đầu thở dài: “Thua rồi, chết chắc luôn,” trái tim tôi
như bị ai bóp nghẹt lại thở không nổi, tay chân bủn rủn thân thể cứng đờ; điều
mà chúng tôi đang trốn chạy đem luôn cả sinh mạng và tài sãn của mình ra để
đánh cược suốt mấy ngày nay; bây giờ đang ở đây mà nạt nộ quát tháo ra uy; và
đây cuôc chiến mới thật sự bắt đầu sau khi đã trải qua bao nhiêu chết chóc kinh
hoàng phi nhân, phi lý.
Một đoàn người đi ngược lại phía
chúng tôi với những đôi mắt lơ láo thất thần, nét mặt đầy sự sợ hải mệt
mỏi cùng cực, một người nói nhỏ vối chúng tôi: “ông vc sau lưng chúng tôi họ
lùa chúng tôi bắt phải quay về.” Mấy người con trai trong đoàn chúng tôi run
lẩy bẩy còn bà An thì như muốn xỉu vào tay ông An, bọn con gái chúng tôi
không ai dám thở, kỳ quá đi làm như nếu thở thì vc nghe được. Vừa lúc đòan
người đi qua khỏi chúng tôi thì có một ông lính vc áp tải đi sau cùng, thấy
chúng tôi đang lum khum ngồi trong bụi rậm, ông ta kêu đoàn người đứng lại rồi
vẩy tay ra lịnh cho chúng tôi chui ra khỏi lùm cây, nhập vào đoàn người mà ông
ta đang áp tải, bắt tất cả ngồi xuống trên một khoãng trống của khu rừng
bên con đường mòn đầy bóng cây cao mát rượi, ông ta hắng giọng sữa điệu
bộ rồi nói với một bộ dáng rất hống hách, nạt nộ đầy đe dọa:
- Sao hả, nhân dân muốn chạy trốn
hả? Nhân dân muốn theo chân thằng Thiệu chứ gì? Nhân dân không biết rằng bộ đội
cụ Hồ phải băng rừng lội suối nằm gai nếm mật, hy sinh thân mình để vào Nam
giải phóng cho nhân dân khỏi bị áp bức của thằng Mỹ, thằng Thiệu không hả?
Tôi gạt nổi sợ hải qua một bên để
quan sát ông ta cho thật kỷ; cái người tự xưng: “bộ đội cụ Hồ ” này là một
người đàn ông chừng 40 tuổi, nét mặt khắc khổ đen đúa hai hàm răng chìa ra nhấp
nhô vàng ố có chổ đen kịch, nếu ngậm miệng lại thì hai cái môi vẫn không làm
sao che kín được hai hàm răng, đôi con mắt sâu hoắm tròng trắng nhiều hơn tròng
đen, bộ lông maỳ rậm châu sát vào nhau, lổ mũi tẹt và hai cánh mủi hếch cứ
phập phà phập phồng, tôi kết luận: đây là một người đàn ông XẤU, ông ta mặc
bộ quần áo kaki màu ôliu nhàu nát rộng thùng thình, chân mang đôi săng đan đen
bằng cao su hai quai chéo nhau phía trước để lộ mấy ngón chân có những móng đầy
đất, một quai quàng sau cái gót chân đen sì nứt nẽ (sau này tôi mới biết đó là
đôi dép râu cụ Hồ), trên vai ông ta đeo một cái radio nhỏ hơn quyển tập học trò
hình chữ nhật tay cầm khẩu Ak, ông ta kéo cái radio ra trước ngực cố ý cho
chúng tôi thấy, từ chiếc radio phát ra 1 giọng ca nữ: eo éo lanh lãnh xoáy buốt
cả óc, ông ta tỏ vẻ rất hãnh diện về cái radio đang đeo bên mình và cho rằng
chúng tôi là những kẻ lạc hậu, chưa bao giờ thấy được nền “văn minh radio,” nên
ông ta cứ đưa tay ve vuốt nhúc nhích xê dịch cái máy phát thanh để chúng tôi
phải nhìn, đã thế lại còn mở volume cho lớn, giọng nói nặng chịch của ông ta
hòa cùng với tiếng ca đinh tai nhức óc của cô ca sĩ làm đầu tôi muốn vở tung,
mọi người đều rất khó chịu khổ sở vì “đôi tai bị hiếp dâm”. Ông vc thao thao
tuyên truyền về XHCN, về bác Hồ, về Đảng CS, tuy lối nói và điệu bộ của ông ta
đầy sự hách dịch của kẽ chiến thắng nhưng sao tôi vẫn thấy nơi ông ta có một vẻ
đần độn lố bịch dốt nát quê mùa đến tội nghiệp, dù ông ta cố tình huênh hoang
lên mặt và hơi có vẻ đe dọa với những người đang bị bắt buộc phải nghe ông ta
nói nhưng chúng tôi nghe mà như “vịt nghe sấm” một tràng giang đại hải về Mác
lê nin, về cuộc sống thiên đường chúng tôi sẽ được hưỡng nếu đi theo bác và
đãng, rồi hợp tác xã và những gì gì nhiều lắm không nhớ nổi.
Sau khi nạt nộ, tuyên truyền, giảng
dạy, khoe khoang lẫn đe dọa đã đời, ông ta sờ vào cái radio và an ủi chúng tôi:
- Nhân dân theo tôi về nhà mình, sau
này nhân dân mỗi nhà cũng sẻ có một cái đài như tôi đây để nghe tin tức, nghe
nhạc thích lắm nhé; đây là nền văn minh của nước XHCN, vì nhân dân bị thằng Mỹ,
thằng Thiệu cai trị nên không thấy được sự tiến bộ này, nhân dân xem nhé; bộ
đội giải phóng mỗi người đều có một cái đài như thế này đấy.
Và như muốn khoe thêm về sự kỳ diệu
của cái đài, hai ngón tay ông ta se lui se tới vặn volume cho âm thanh lớn thật
lớn rồi bất ngờ nhỏ lại… rồi thật lớn... rồi nhỏ lại… lúc này thì tôi sắp nổi
khùng, tôi bấm tay Hằng, hai đứa muốn cười thật to nhưng không dám, và tôi cũng
muốn hét lớn lên rằng: “–chúng tôi đâu cần các anh giải phóng, chúng tôi đang
sống rất vui vẽ ấm no hạnh phúc”… nhưng lở ông ta nổi giận chỉa súng vào hai
đứa tôi mà bắn cái... đùng...thì.. chết oan mạng. Ông lính vc kết thúc bài
tuyên truyền của mình bằng một cái khua tay và lớn tiếng ra lịnh:
- Nhân dân đứng dậy đi tiếp không
được bỏ trốn đấy nhé.
Lời nói và hành động cũng như nhũng
sự việc đã xảy ra là một mâu thuẫn không thể nào tưởng tượng nổi, nó thật khôi
hài và đầy bi thảm, mọi người uể oải chậm chạp đứng dậy, thân thể rả rời.
AnhĐạt nháy mắt ra dấu cho chúng tôi đi thụt lùi rất chậm sợ ông vc để ý. Cả
một đoàn người lôi thôi lếch thếch lê bước trước họng súng của ông ta, người
phụ nữ ôm đứa bé trên tay quay nhìn chúng tôi lần cuối, cái nhìn chất chứa nổi
tuyệt vọng lẫn đau đớn buồn rầu, hai giọt nước lặng lẽ rơi ra từ khóe mắt của
chị, bước chân chị ngập ngừng xiêu vẹo... Chúng tôi đi theo kiểu thụt lùi và bỏ
xa họ, anh Đạt truyền lệnh: cùng nhau quay đầu lại rồi tìm chổ núp. cũng chui
vào một bụi cây to ngồi nghỉ, anh Đạt suy luận:
- Hắn đưa mình về lại Pleiku, vậy là
hắn đã chiếm đươc Pleiku rồi, mình đi ngược lại hắn như thế phía trước mặt của
mình vẫn còn là vùng của quốc gia.
Lời nói của anh Đạt gieo vào lòng
chúng tôi một niềm hy vọng rất lớn, đủ để cho chúng tôi hăng hái tiếp tục bước
trên con đương đầy chông gai nguy hiểm mà về đến miền đất Tự Do, chưa bao giờ
như bây giờ hai chữ TỰ DO quí đến thế, nó đánh đổi biết bao nhiêu sinh mạng con
người... phải đứng lên mà đi tiếp, nhưng... chưa đi được bao nhiêu thì... chúng
tôi chới với khi gặp thêm một đoàn người đi ngược lại, cũng giống hệt như đoàn
người lúc nãy: lôi thôi lếch thếch, mệt mỏi kéo lê từng bước rả rời với đôi mắt
đầy tuyệt vọng và đau khổ, áp tải họ cũng là một ông vc; ông ta chỉa súng vào
lùm cây ra lịnh cho chúng tôi bước ra nhập vào đoàn người mà ông ta đang áp tải
và bắt tất cả ngồi sát vào với nhau,, mọi thứ trên người ông này: từ điệu bộ
huênh hoang; hống hách, áo quần luộm thuộm, đôi dép râu…, cho đến lối tuyên
truyền, khoe khoang về cái đài; luôn cả điệu bộ ve vuốt, se se nút chỉnh âm
thanh... đều giống hệt nhau, làm như họ đươc đúc ra từ một khuôn mẩu có sẵn,
trông thật buồn cười, tội nghiệp đến đáng thương theo một nghỉa nào đó, nhưng
họ vẫn là người thắng cuộc vì vậy họ cho mình được quyền nạt nộ, lớn giọng với
chúng tôi; là những người đang trốn chạy những kẽ mà chúng tôi chê bai... Đó là
một điều nghịch lý, khôi hài cười ra nước mắt.
- Bây giờ nhân dân theo tôi về nhà,
đừng tìm cách trốn đấy nhé, nói cho mà biết không ai trốn được chúng tôi đâu
đấy.
Một câu nói đầy đe dọa, ông ta hất
hàm ra lịnh cho mọi người đứng lên đi tiếp “về nhà, ”…Cũng theo cách của anh
Đạt như lần trước; cả gia đình đi thụt lùi, trông ngộ nghỉnh tức cười hết sức
nhưng không ai dám cười vì sợ. . . Chúng tôi không cam tâm làm người thua cuộc
nên bằng mọi cách phải thoát về bên kia: chị Bích còn có anh Thi, anh Đạt còn
có vợ và hai con mà anh nghỉ rằng chị đã về tới Nha Trang rồi, ông bà An có luật
ở Sài Gòn, Hằng cũng hy vọng anh Sơn ở đâu đó trong thành phố Nha Trang hay Sài
gòn, RIÊNG TÔI, TÔI CŨNG CÒN CÓ RẤT NHIỀU VÀ RẤT NHIỀU, không thể nào về lại
Plei ku.
Chúng tôi tụt lại phía sau khá xa,
khi không còn nhìn thấy một ai anh Đạt hô nhỏ: “nào chạy nhớ thật êm,” Khải nói
nhỏ vào tai tôi: “- giống hệt những lần anh đi hành quân ghê,” lúc này chúng
tôi không sợ chết vì bom rơi đạn lạc nữa, mà chúng tôi sợ bị vc bắt lại, nổi sợ
này cũng lớn như nổi sợ kia; nó cũng đe dọa chúng tôi từng giờ từng phút, mọi
lúc mọi nơi; nhưng có thể tránh được, còn súng đạn thì... thua luôn. Chúng tôi
mỏi mệt, thân xác rã rời, tinh thần căng thẳng đến tột cùng, anh Đạt kiếm chổ
cho mọi người nghỉ chân, tôi nhìn chung quanh; nơi đây sao mà đẹp quá, chúng
tôi đang ngồi ở trên cao của ven rừng thưa, bên dưới là dòng sông nươc trong
veo, có bờ cát vàng trải dài theo con sông, anh Đạt mở bản đồ ra xem, nơi đây
là khúc quanh của sông Adun, nếu đi men theo con sông này sẽ về Pleiku rất gần
Hàm Rồng; điều này là không thể được, vc đang tảo thanh khắp nơi “lượm” từng
người dân để đưa “về chốn cũ ”, họ không muốn chiến thắng một thành phố bỏ ngỏ,
không dân vì như thế chiến thắng của họ không giá trị, nói cho vui vậy thôi;
chứ họ vẫn là người thắng, và bên đây vẫn là người thua cuộc dù rằng (chưa đánh
đã thua)... Anh Đạt và mấy người con trai bàn bạc với nhau một lúc rồi quyết
định đi xuyên rừng men theo đèo MăngYang tới sông ÊPA, từ đó sẽ đi cặp theo con
sông này về đến Tuy Hòa, sở dĩ phải đi theo ven sông là để tránh cái khát, khát
nước cũng là một sự đe dọa rất lớn cho sự sống, người ta rất dễ chết vì khát,
không chết vì bom đạn mà chết vì khát thì coi như xui hết biết... không còn gì
ngớ ngẩn hơn.
Mặc dù đang đói và mệt nhưng chúng
tôi: Thủy, Hằng, Thấm, Ngân, Hoa, Kiều... vẩn không thể nào dửng dưng được
trước vẽ đẹp của thiên nhiên rừng núi nơi đây, tâm hồn chúng tôi rung động sâu
xa, riêng tôi; tôi muốn toàn thân mình được tan ra và hòa vào trong nước, trộn
lẫn trong cát rồi trôi đi mãi; trôi mãi…Nhìn làn nước trong xanh, hiền hòa bên
dưới tôi thèm đươc nhảy xuống ngâm mình trong đó. Tôi rủ Hằng và mấy đứa con
gái xuống tắm, ông bà An và chị Bích ngăn đám con gái chúng tôi lại, không cho
xuống nhưng chúng tôi cứ nhào xuống, áo quần vẫn mặc trên người, nước mát lạnh
ôm lấy và vuốt ve thân thể chúng tôi, nước mơn trớn từng đường lông tơ kẽ tóc
trên người chúng tôi, nước vổ về xoa dịu nổi đau trong tâm hồn và cả thể xác
của chúng tôi nữa, thật tuyệt vời không gì sánh được. chúng tôi cùng nhau vui
đùa trong nước, tạm quên đi bao nhiêu chuyện đau lòng;. Ông bà An, chị Bích và
những người con trai không cưỡng lại nổi sự hấp dẫn của làn nước trong xanh,
cũng lội xuống tắm rửa, kì cọ cho đất đai và bụi đường theo nước trôi đi. “đã
quá; ”…ai đó kêu lên. Hằng kéo tôi lên bờ trước, hai đứa che cho nhau thay áo
quần rồi đem đồ ướt trải trên lùm cây để gió và nắng chiều hong khô rồi hai
đứa ngồi bên nhau; Hằng cất tiếng hát: “Này người yêu; người yêu tôi ơi, bên
kia sông là ánh mặt trời, này người yêu; người yêu tôi hỡi; bên kia đồi cỏ non xanh
mướt...” Hằng gợi nhớ một điều mà mấy hôm nay chúng tôi đã quên; đó là âm nhạc,
là những bài hát mà chúng tôi yêu thích…Mấy chị em của chị Bích người nào hát
cũng hay, mỗi người một giọng, mỗi giọng một vẻ; chị Bích thích nhạc tiền
chiến; mỗi khi chị ca bài Tà áo xanh, hay bài Em đến thăm anh một chiều mưa,
giọng của chị mượt mà êm ái, nũng nịu, làm cho tôi khi nghe; lòng vô cùng bồi
hồi xao xuyến. Hằng thích nhạc Trịnh công Sơn giọng ca của Hằng cũng hay nhưng
không ấm áp và say đắm như giọng của chị Bích, Khải và Luật thì giống nhau:
Thích nhạc ngoại quốc, mỗi lần tôi đến nhà chị Bích chơi vào buổi tối hay những
ngày không có giờ dạy [ thời gian sau này tôi mới quen biết Khải khi Khải
bị thương; được cho về nhà dưỡng thương ] Khải thường hay hát Let it be
của The Beatle, hai anh em đều mê LOBO nên rất chịu khó luyện giọng và hát
cũng nhẹ “lưng trời;” từa tựa như LOBO, còn tôi; tôi thích nhạc của Dương Thiệu
Tước, nhưng tôi hát rất dở nên không hát cho ai nghe bao giờ…, mới chỉ 4 ngày
thôi mà chừng như từ lâu lắm, tự nhiên lòng tôi quặn thắt, đau như có ai đang
bóp mạnh vào tim mình. Khi tất cả đã lên bờ đầy đủ chúng tôi bắt đầu bị cái đói
hành hạ, mỗi người chỉ được một nắm cơm nhỏ như nắm tay của Ty Anh, chẳng thấm
tháp gì cả, nhưng đó là những miếng cơm cuối cùng, ngày mai sẽ ra sao? khi
không còn gì ăn để mà sống, mà đi tìm tự do, một nổi sợ to lớn dè nặng lên tâm
hồn mỗi người chúng tôi. Bé Ly Ly khóc vì chị Bích đã khô sửa, chị Bích cũng
khóc; tôi xót xa nhìn chị; Ty Anh, Ty Em, My Cò thấy mẹ khóc nên cũng khóc
theo, chỉ mới mấy phút trước đây thôi mọi người vui đùa trong dòng nước mát; mà
bây giờ lại cùng nhau khóc...
Có tiếng động sột soạt ở lùm cây bên
cạnh, chúng tôi giật mình hoãng sợ quay nhìn, từ trong lùm cây một thanh niên
bước ra, anh ta dong dõng cao, da ngăm đen, miệng rộng, mủi thô; anh ta ôm
trong tay một túi xách lớn, nhìn chúng tôi nở nụ cười làm quen, chúng tôi cũng
cười lại thay cho lời chào; giữa một nơi như thế này, trong hoàn cảnh như vậy
mà gặp một người thuộc “phe ta “là điều đáng mừng. Khải hỏi:
- Anh đi
một mình à?
Anh ta trả lời – giọng nam pha bắc
kỳ: - Dạ đi một mình, tôi tên Hớn, ba má tôi ở Sài Gòn, có xưỡng gổ, tôi đang
học Luật thì bị kêu đi lính, ba tôi xin cho tôi qua ban Quân cụ, được gần nhà
nhưng tôi không chịu, tánh tôi thích phiêu lưu mạo hiểm, sẳn chú tôi có trại
cưa ở Ban mê thuột; tôi lấy cớ muốn gần với chú, nên xin thuyên chuyển lên cao
nguyên, đơn vị đóng quân ở Dacsong, nơi đó có con sông DacPko đẹp mê hồn, chiều
chiều các nàng sơn nữ ra suối tắm sexy 100/100 tuyệt vời không tã nổi, trước
mặt đốn trú quân của đơn vị tôi là ngọn núi cao 1231m; gần biên giới Lào, đi xa
nhớ nhà nhưng cũng thú vị lắm, tụi tôi từ Kontum về tới sông Êpa bị vc pháo
kích chận đoàn xe lại; trời ơi; tụi nó nhắm vào đoàn xe GMC chở dân di tãn mà
bắn, xe với người tan xác nhiều vô kể, cả giòng sông Êpa đầy máu và xác
người... mấy bạn tôi không biết ai còn ai mất. (làm như lâu lắm rồi Hớn
không được nói nên anh chàng nói một thôi một hồi) Tôi chạy thục mạng, mấy
ngày nay trốn chui trốn nhủi ở trong rừng cứ nhắm bụi cây mà lủi vào, mấy lần
sém bị vc bắt đưa về lại Pleiku.
Hớn lôi ra trong xách mấy hộp bơ
và vài thứ linh tinh đưa cho Khải, Đạt nhỏ kêu lên: “ái chà, quên mất,
Đạt có đem theo cái Radio philip đây, tối tôi nghe đài VOA, BBC, nghe
nhạc đở buồn, với lại có cả cây kèn Acmonica nữa “chúng tôi mừng rở,
Hằng hỏi: còn pin không? – pin mới thay trước khi đi, còn 4 cục sơ cua nữa
lận”. Khải nói:
- 3 ngày nay không nghe được gì
ngoài tiếng súng đạn, tưởng đâu mình đã thành người tiền sử rồi chứ.
Bây giờ là 2 giờ chiều, anh Đạt kêu
chúng tôi chuẩn bị lên đường, nhưng trước khi đi phải để anh và mấy người con
trai chia nhau đi thám thính một vòng, anh nhìn về 2 ngã; Khải và Đạt nhỏ đi
về phía tay phải con đường mòn, anh Đạt và Minh đi về phía tay trái, Hưng, Phi
ở lại trông chừng mọi người, ông An nói: 4 người chỉ được đi trong vòng 15 phút
thôi, tôi tò mò muốn đi theo nhưng anh Đạt mắng: “chỉ vướng chân;” chúng tôi
chờ đợi trong âu lo và hồi hộp cảm thấy sao mà thời gian dài như vô tận, cho
đến khi 4 người cùng trở về. chúng tôi mừng quá. Anh Đạt cầm trên tay một cái
nón sắt còn mới, tay kia cầm 1 bịch gạo chừng 3 kg anh kể cho cha mẹ anh và mọi
người cùng nghe:
- Chỉ đi chừng 500m là ra đến đường
QL, trên đường là cả một rừng đồ đạt vứt ngổn ngang, nhiều vô số kể, xác người
nằm la liệt, nát bấy, hơi có mùi thum thủm, xe cộ thì tanh bành, cái nón sắt
này con lượm ở gần đây; cạnh đôi giày lính, còn gạo đổ tung tóe bên đường hốt
lại được có chừng này, đây là Phú Bổn, nó nằm giữa Qui Nhơn và Tuy Hòa
đó.
Ngân hỏi anh Đạt sao không lấy đôi
giày về mang cho êm chân” - Ngân nói vớ vẫn, người ta còn phải bỏ mà mình lại
đi lượm, lở gặp vc nó bắt ngay ” Khải vừa tháo bỏ lớp độn bên trong cái nón
sắt vừa nói: - Với cái nón sắt này mình có được 1 cái nồi, còn nắp nồi thì bẻ
lá chuối mọc bên đường đậy lại
Khải lại kể:
- Trời ơi, xe hơi, tủ lạnh, tivi,
máy may đầy 2 bên đường có ông đại úy ngồi chết trên tay lái của chiếc xe Jeep;
tay ông ta đeo cái đồng hồ đẹp lắm Khải tính lấy, nhưng thấy 2 con mắt ông mở
trừng trừng, máu trên người đông cứng, sợ quá, không dám…
Có thêm Hớn hình như mọi người an tâm hơn, bé Ly Ly đói
bụng đòi bú, bé ngậm vú mẹ nhay nhay nhưng sữa của chị Bích không còn, nó giận
dổi khóc làm chị Bích cũng khóc, Đạt nhỏ và Hớn có ít nhiều kinh nghiệm và
hiểu biết về cuộc sống của người thượng, tôi cũng thế; Người thượng họ dựng
làng gần sông, suối, họ chọn một nơi nào đó trong rừng không xa buôn làng là
mấy rồi chặt cây đốt cháy thành tro, qua mùa mưa tro trở thành phân bón tự
nhiên, họ dọn sạch sẽ và trồng các giống bắp, lúa nếp, lúa gạo, khoai lang,
khoai mì... lúc đầu nương rẫy của họ gần làng nhưng sau mỗi mùa thu gặt; họ bỏ
nơi đó, đi tìm nơi khác, lại chặt cây đốt rừng làm rẫy. rừng càng ngày càng bị
chặt phá một cách vô tội vạ, rẫy của họ càng lúc càng xa… nhưng họ vẫn bám gần
sông suối. chung quanh làng họ trồng thêm đu đủ, bí ngô, mía, chuối và các loại
rau, đậu, họ sống rất gần gủi với thiên nhiên; tâm hồn họ đơn sơ mộc mạc ít suy
nghĩ. Nhờ có số gạo lượm được, Anh Đạt biểu Ngân nấu cháo, lấy nước cháo đổ vô
bình sữa cho Ly Ly bú; còn người lớn thì “hưởng xái;” Hớn đưa cho Ngân một hộp
diêm quẹt Quân Tiếp Vụ - chúng tôi đươc ngồi nghĩ thêm một chút nữa trong thời
gian chờ cháo chín; - lúc thu dọn đồ để đi di tãn, chị Bích mang theo 2 bình
sữa và mấy hộp sữa nhưng lúc nhảy xướng xe mà chạy chị không kịp lấy
theo được hộp nào, cũng may mà có 2 bình sữa - Chúng tôi ngồi chia thành
từng nhóm nhỏ với nhau; mấy đứa con gái như: Ngân, Thấm, Hoa, Kiều, ngồi bên
bếp lửa canh nồi cháo, Ty: em trai út và các con chị Bích, cả bé Lan nữa đang
nghịch lá khô, số còn lại thì cùng nhau bàn bạc chương trình và lộ trình cho
những ngày tiếp theo; theo ý kiến và sự hiểu biết của từng người đóng góp lại,
chúng tôi quyết định: phải men theo sông mà đi, cố gắng vô sâu mấy buôn làng
của Thượng kiếm bắp, bí ngô, đu đủ, mía… là có đồ ăn; không sợ đói, chỉ cần
chặt vài cây mía róc sạch vỏ, còn mình thì súc miệng cho sạch rồi dùng hai hàm
răng làm “máy ép nước mía; “lấy bình sửa hứng cho bé Ly bú, đu đủ chín nhừ thì
tán nhuyển ra cho Ly Ly ăn, hườm hườm để người lớn, bắp thì chỉ cần tách lấy
hột, cắn bể ra, buổi tối ngâm trong nước cho mềm đến sáng nấu chín mang theo
ăn dọc đường... cần nhất là kiếm cho được nhiều bắp; Hằng cười nói “: tụi mình
giống dân du mục quá à, sống kiếp lang thang không nhà;” “- ừ há; giống dân du
mục đi du lịch, ở khách sạn thiên nhiên, toilett thiên nhiên...” bà An la hai
đứa tôi “chết trước mắt còn đùa“ chị Bích thì bênh:- “không đùa dể chết sớm hơn
đó mợ ạ ”.Nồi cháo đã nhừ, mùi thơm của cháo lang tỏa phất phơ trước mũi tôi,
gợi cho tôi nhớ đến một buổi tối hôm nào đã xa xôi lắm; khi chúng tôi còn yêu
nhau, anh ấy đưa tôi đi ăn cháo tôm – thật tình với tôi lúc đó; chỉ cần ngồi
gần anh là tôi đã cảm thấy no rồi vì vui sướng và hạnh phúc – khi người ta bưng
tô cháo ra, với làn hơi nóng, thơm của gạo dẻo được nấu cùng lá dứa, với mùi
tiêu cay nồng và mùi hành ngò dìu dịu, trải trên mặt là một lớp mở hành phi
màu vàng óng thơm ngào ngạt, trong tô là mấy con tôm to bằng ngón tay cái đã
được lột vỏ, có màu đỏ hồng nằm cong tròn, tất cả đều hòa chung, quyện lại
cùng với mùi gia vị bày ra trước mặt tôi; có người yêu tôi ngồi bên cạnh, chúng
tôi vừa thổi; vừa húp; vừa nhai; vừa nuốt một cách ngon lành; lòng thì no nê
và hạnh phúc thật ngất ngây, tôi gọi đó là tô cháo của tình yêu... Chị Bích
múc nước cháo đổ vào bình sữa cho bé Ly bú, Anh Đạt chưa cho chúng tôi ăn cháo
bây giờ mà phải đi tiếp, chừng nào gần tối kiếm được chổ nghỉ; ngủ qua đêm lúc
đó mới được ăn. Cần phải tận dụng thời gian và cố gắng rút ngắn quãng đường
dài. Sở dĩ phải nấu cháo sớm vì ban đêm không được đốt lửa, sợ vc thấy, rất là
nguy hiểm.
Cả đòan người đi thêm chừng 2 km nữa
thì chịu hết nổi, không thể nào đi tiếp đươc, anh Đạt cho ngừng lại để nghỉ,
nơi đây là một khu rừng tre, lá tre vàng rụng trải lên trên mặt đất một lớp dày
êm ái, tre mọc từng cụm rải rác . Cảnh trời chiều nơi đây đang dần nhuộm tối,
đẹp một cách lạ lùng, nó huyền ảo, mênh mông đầy quyến rũ, màu trắng của mây
chiều chuyển sang màu xám bạc, sắc trời pha tím, sương chiều trộn lẩn màu
hương khói, bên kia sông là bãi cát vàng tươi đang ngã sang màu nâu sẩm chạy
dài ngược lên khu rừng thưa, vẽ tỉnh lặng êm êm của hoàng hôn gợi lên trong tôi
nhiều nổi nhờ, lòng cảm thấy man mác, bâng khuâng và chơi vơi buồn. Bà An lấy
cái ca múc cho mỗi người một ca cháo, không biết Khải kiếm đâu ra và từ lúc nào
một gói muối nhỏ, đưa cho Ngân bỏ vô nồi cháo trắng, nhờ thế nó có vị mặn dể
nuốt, cái ấm nước; mà trong lúc cuống cuồng nhảy ra khỏi xe bà An quơ vội theo
cùng cái ca nhà binh là những đồ dùng vô cùng quí giá cho cả đoàn người vào lúc
này, trong ấm chỉ còn một ít nước mỗi người được một ngụm, cũng không sao vì
bên dưới là dòng sông, tha hồ uống.. . Chúng tôi ngồi bên này sông, đăm đăm
nhìn sang bên kia sông, tưởng tượng bên kia là miền tự do với lá cờ vàng 3 sọc
đỏ, Hằng vẫn ưa hát mỗi lần ngồi nghĩ chân, câu hát trở thành niềm mơ tưỡng:
“này người yêu, người yêu tôi ơi... ”, Ông An, anh Đạt, Đạt nhỏ, Hớn,
Khải... đang bàn nhau về chương trình ngày mai, anh không cho tôi và Hằng ngồi
mơ mộng vớ vẫn nữa phải trở về với thực tế; mà... trời ơi, thực tế này đáng sợ
biết bao nhiêu, Khải đưa ra ý kiến:
- Mình vẫn đang ở trong vùng cao
nguyên; nơi đây có nhiều rừng thưa; sông, suối, rải rác có những buôn làng của
người thượng, mình phải đi theo đường rừng men theo dòng sông vì có 3 điều
thuận lợi:
1 / khó chạm trán với VC, vì họ đã
chiếm được cao nguyên, họ sẽ tràn về đồng bằng thành phố.
2 / không sợ bị thiếu nước, vì thiếu
nước sẽ chết khát.
3 / Dể kiếm được thức ăn trong các
buôn làng.
Tôi than: “Trời ơi đi tìm về miền tự
do mà sao nghe cực quá hà, đi kiểu này biết đến bao giờ mới tới nơi?” không ai
trả lời, anh Đạt nói ý kiến của mình:
Theo tôi biết mình đang ở phía Tây
của sông Adun, đoàn xe mình bị pháo kích ngay tại Phú Bổn, phải vượt
qua bên kia sông, cứ đi trong rừng cặp theo đèo Măngyang về lại sông Êpa, từ
đó mình đi dọc theo sông Êpa về đến Krong-Pa, từ Krong-Pa về tới Tuy Hòa, từ
Tuy Hòa mình về được Nha Trang… bằng cách này mình phải thoát ra khỏi
Phú Bổn để tới Tuy Hòa trước đã.
- Nhưng mà ở đoạn sông Êpa VC đã
pháo kích chận đầu đoàn xe làm người ta chết quá trời, bây giờ quay trở lại
đoạn sông đó, nghĩ lại buổi tối ở đó dể gặp ma… sợ lắm.
Anh Đạt chỉ cho chúng tôi xem từng
chi tiết trong bản đồ, vừa chỉ vừa giải thích, Khải dọa:
- Nhìn trong bản đồ thấy gần và đơn
giản, nhưng đi rồi mới biết; Khải đã từng đi hành quân, gian nan khổ cực lắm
đó. Qúi tiểu thư đừng than thở nhé.
Chị Bích bực bội la Khải: - Khải im
đi; dọa các em làm gì cho chúng nó nản lòng.
Mọi người đồng ý với ý kiến của anh
Đạt và Khải, ai nấy đều đã mệt nên tìm một chổ để nằm ngủ qua đêm. Trời tối
hẳn, bây giờ thì không còn nhìn thấy được dòng sông bên dưới, chỉ nghe tiếng
nước róc rách của con sông chảy qua gềnh đá, tiếng gió vi vu nhè nhẹ và tiếng
xào xạc của những cành lá ở trên cây, đêm nay chúng tôi lại được nghe tiếng dế
nỉ non hòa chung với tiếng côn trùng rã rích, tấc cả hợp lại thành một giàn
nhạc hòa tấu của thiên nhiên giữa núi rừng xa lạ. Đang mơ màng đi vào giấc ngủ,
bổng nhiên chúng tôi nghe những tiếng gầm rú, đó là tiếng động cơ của một loại
xe hạng nặng, ánh sáng của những chiếc đèn pha sáng lóa xuyên qua bóng tối của
đêm đen sâu hun hút, nhiều xe và nhiều xe ghê lắm, nó cứ rầm rập và rầm rập làm
rung rinh chổ chúng tôi nằm. xe gì đây? là GMC, hay xe của vc? , đoàn xe chạy
qua, tiếng xe nghe vừa quyến rủ mà cũng vừa đe dọa. Anh Đạt lo lắng và nôn
nóng, anh nằm sát đất bò ra gần đường xe chạy, lâu lắm anh mới trở lại, tôi
nghe được tiếng anh thở dài, anh nói nhỏ: “xe vc, bên hông có cờ đỏ sao vàng,
đó là xe motova; lính vc ngồi đầy trên xe ;” sự sợ hải dù có đè nặng lên tim
tôi đi nửa, nhưng mấy hôm nay sợ nhiều quá rồi, nó đã ở tận cùng của nổi sợ,
bây giờ không còn chổ nào trống để mà chất chứa thêm. Đêm nay sao dài quá dài,
buồn quá, những đứa bé và mấy cô em gái vô tư đang say ngủ, còn tôi, Hằng, Khải,
Đạt… cả Minh nữa, nằm thao thức, Đạt nhỏ mở radio tìm đài VOA để nghe tin tức
và vài lời bình luận (ai là người đã viết ra những lời bình luận; có ở vào hoàn
cảnh và tâm tư của chúng tôi để mà viết cho đúng không đây? hay chỉ là những
người ngồi trong phòng có máy lạnh, bên ly cà phê sữa nóng, vô tư viết ra những
lời vô thưỡng vô phạt, và ai là người hô hào với những câu nói đao to búa lớn
rồi ung dung ngã người lắt lư trên ghế bành ngậm điếu xì gà, mắt lim dim nhìn
khói thuốc bay bay, tai lắng nghe Thanh Tuyền, Giao Linh nũng nịu hát; lòng
sãng khoái lâng lâng thấy đời rất đáng yêu, đáng hưỡng thụ, không thèm biết đến
những ai đang chết, những cái chết tức khắc và những cái chết từ từ)… nghĩ đến
đây lòng tôi chua xót quá. Ông Thiệu đang hùng hồn tuyên bố trong đài phát
thanh: “Nhất định chúng ta sẽ thắng, đây là chiến lược và chiến thuật của Quân
Đội VNCH, tôi sẽ sát cánh cùng với đồng bào đến hơi thở cuối cùng”… giữa khoảng
rừng thanh vắng đêm nay, lời hứa hẹn của ông mang lại cho chúng tôi nhiều hy
vọng và đầy cảm động, không hiểu tại sao chúng tôi lại quá ngây thơ và dể dàng
để tin vào những lời tuyên bố như thế. Hết phần tin tức và bình luận, đến phần
văn nghệ, Sĩ Phú đang hát bài “Em Tôi” giọng ông trầm ấm làm cho lòng tôi nao
nao, rồi giọng ca Thái Thanh lảnh lót với: “Ngày xưa Hoàng thị” chao ơi; sao mà
tôi muốn khóc quá đi thôi, Hằng nắm tay tôi bóp nhẹ, nổi buồn của tôi được chia
đôi và Hằng cũng thế, chúng tôi đang nhớ những ngày tháng đã xa, nhớ một vùng
trời đầy ắp những kỷ niệm ngọt ngào, Hằng nhớ anh Sơn còn tôi cũng đang nhớ một
người
CHÂN MỀM TRÊN ĐÁ
KỲ
THỨ 3
19/03 /1975
Trời chưa sáng mấy, cảnh vật mờ mờ
trong hơi sương, vẫn đang còn là tiết Xuân mà. Anh Đạt đánh thức mọi người dậy,
bắt chúng tôi xuống sông rửa mặt súc miệng làm vệ sinh; Ngân đang nhóm lửa nấu
cháo; nước sông ban mai mát lạnh, tôi ngồi trên phiến đá nhúng hai bàn chân đầy
vết trầy xước của mình xuống nước, cảm giác thật dễ chịu, đám con gái chạy
xuống sông tung tăng vui đùa; cười vang cả một khúc sông, tối hôm qua vc đi hết
rồi; còn sống được ngày nào thì cứ cười đùa cho thỏa chí -tôi hét lên thật to
cho mọi người nghe như vậy, đang vui bổng nhiên có tiếng rú của Ngân, Ngân ú ớ
đưa tay chỉ về phía đầu nguồn của con sông, tiếp đến là tiếng la hét đồng loạt
cuả bầy con gái, trời ơi; kinh khủng quá, xác chết của một người đàn ông phình
to, thâm tím đang lờ đờ trôi xuôi theo giòng nước về phía chúng tôi; bà An như
muốn ngất xỉu trong tay ông An, mấy đứa con gái chạy nhanh lên bờ, đưa tay cố
họng móc cho ói ra hết những gì có trong bụng (chỉ toàn là nước mà thôi), mấy
người con trai bình tỉnh hơn nhưng cũng khạc nhổ lung tung, Anh Đạt kiếm được
mấy khúc cây kêu hết đám con trai cùng nhau hì hục khều, đẩy cái xác, khó khăn
lắm mới đưa đươc vào bờ vì nó đã bị sình to; vừa nặng vừa thúi kinh khủng.
- Phải chôn thôi con ạ, để vậy tội
quá; không đành lòng… Bà An thở dài nói.
Mấy người con trai lên phía trên bãi
cỏ, với cái dao găm của Khải, đã chặt được vài khúc cây nhỏ cắm cúi đào một
cái lổ hình chử nhật không sâu lắm;nhắm cũng vừa một người nằm, sau đó mỗi
người cầm một khúc cây dài kê dưới cái xác nẩy từ từ cho lọt xuống lổ, rồi sửa
sang cho xác người chết nằm gọn gàng trong lổ, chúng tôi cùng tới, một tay bịt
mũi;một tay bốc nắm đất thảy xuống, chào vĩnh biệt. mấy người con trai lật đật
lấp đất lại, còn đắp đất lên cao thành một nấm mồ. Khải tước vỏ cây làm sợi dây
cột 2 khúc cây làm thành 1 cây thánh giá, đóng xuống ngôi mộ, tôi nói:- sao mà
giống trong phim quá chừng, và mỗi người chúng mình là một diển viên đang đóng
phim... -Khải nói tôi chỉ giỏi tiếu lâm… Công việc xong xuôi thì cũng gần hết
một buổi sáng, vì gặp chuyện cái xác trôi sông, Anh Đạt sợ dòng nước đã bị dơ chúng
tôi mà uống thì sẻ bịnh, anh nảy ra sáng kiến moi thử một cái lổ sâu trên cát
cạnh bờ; nước từ trong lổ ứa ra ngang với mặt nước sông, anh giải thích là cát
đã lọc sạch nước; từ nay mỗi lần lấy nước nấu uống, phải moi lổ ven sông, chúng
tôi cùng nhau mỗi đứa moi 1 lổ, chờ nước ứa ra, Ngân có nhiệm vụ múc nước đó đổ
vô ấm nấu chín để uống, công việc chúng tôi làm giống như một trò chơi, vui
quá, tôi nói với Khải "Ước gì đây là một cuộc cắm trại thực sự;" Khải
cười nhéo má tôi "em lại mơ mộng nữa rồi"
Mặt trời lên cao, chúng tôi đói cồn
cào, mỗi đứa được ăn một ca cháo; dù không no nhưng cũng tạm ấm bụng trước khi
tiếp tục cuộc hành trình. Bây giờ phải lội qua con sông này để đi theo lộ trình
đã định: lẩn trốn trong những lùm cây và bám dọc theo QL, cặp con sông Êpa để
về Tuy Hòa, Minh than: "đi như thế này xa quá, cứ xuôi theo đường chim bay
cho gần; ". Anh Đạt mắng: "dốt quá; không thể nào mạo hiểm được,
đi loạng quạng, lở mà gặp vc là hết đường về." Chúng tôi lại bó chân bằng
2 vạt áo dài mà mấy hôm nay đi đã sờn, tôi lấy một mớ lá lót thêm dưới bàn chân
cho dày và êm; tước vỏ cây làm dây cột, hai cánh tay áo tôi bó chân cho bé Lan,
phải lót thêm 1 lớp lá.
Chúng tôi đi loanh quanh chẳng biết
được bao xa thì thấy bên dưới dốc đường mòn có một khúc sông hẹp, anh Đạt quyết
định vượt qua bên kia sông, anh cho mọi người ngồi nghỉ còn anh lội thử xem
sông cạn hay sâu, mừng quá: sông cạn ngang đầu gối, qua được bên kia sông anh
đưa tay ngoắc chúng tôi "- lại đươc đùa dưới nước;" Minh và Khải đội
cái sacmarin trên đầu cho khỏi ướt, chúng tôi băng qua sông, nước trong veo
thấy được những hòn sỏi dưới đáy sông; tôi thấy nó giống một dòng suối thì đúng
hơn. Chúng tôi ngồi nghỉ chờ Đạt; Khải đi thám thính; qua đến bên này rồi tôi
thấy nó cũng giống bên kia, một sự yên lặng gần như tuyệt đối, lúc ở bên kia
sông chúng tôi có biết bao nhiêu là hy vọng, nhưng rồi... chẳng thấy gì. Anh
Đạt về, anh kêu đi tiếp "-. Một đám tàn quân lếch thếch lên đường; ".
Tôi nói với ông bà An: " - hai bác phải cho con nói đùa, có vui hai chân
mới bước nhanh, còn buồn rầu nó làm nặng chân đi không nổi;" Ông An cười:
- con nói đúng...
Tháng 3, cuối mùa Xuân nắng không
còn dịu mà hơi gắt, nắng nóng dội lên đầu chúng tôi, bộ áo quần bị ướt lúc lội
qua sông đang khô dần trên người, tôi mệt quá, đầu nặng chỉu, hơi thở nóng ran
phát ra 2 lổ mũi như có lữa đốt, tôi bước đi lảo đảo như người say rồi ngã chúi
đầu xuống đất, Khải hoãng hốt nhào đến đở tôi đứng dậy, cả đoàn người phải dừng
lại, mắt tôi mờ đi và tôi òa khóc nức nở, bao nhiêu nổi niềm đau đớn, khổ sở và
sợ hải, căng thẳng mấy ngày qua vở òa như thác đổ, bà An khóc theo, tiếng khóc
lây lan từ người nọ qua người kia; chỉ có Đạt nhỏ là ngồi ngó mông lung,
chừng như thấy mọi người khóc thế đã đủ, Anh Đạt đứng lên nói; giọng ra lệnh:
- Thôi;
khóc bi nhiêu đủ rồi, đứng lên đi tiếp chứ.
Kể ra khóc được nhiều như vậy cũng
làm vơi đi những gì đang trỉu nặng trong lòng, Khải đở tôi đứng dậy, ân cần dổ
dành - cố gắng lên, về tới Sài gòn tha hồ sướng, anh sẽ dẫn Thủy đi uống cà phê
Thanh Bạch, đi ăn pate chaud ở Thanh Thế, xem cinema rạp Eden... tôi vịn vào
vai Khải đi như người mộng du. Đã trưa lắm rồi; chúng tôi dừng lại ở một khu
rừng thưa, rừng đẹp quá, lá vàng rụng lâu ngày nằm chất chồng lên nhau thành
một tấm thãm dày và êm, những cây cổ thụ to cao vươn tán đan vào nhau cho chúng
tôi bóng mát, tôi nằm xuống tấm thãm lá êm ái tưởng như mình đang nằm trên nệm,
mùi lá khô và hơi ẩm của đất quyện vào nhau nồng nồng, ngái ngái, hăng hăng,
tôi vòng hai tay ra sau làm gối kê đầu nhìn lên bầu trời xanh qua kẻ lá, nhìn
những sợi nắng nhảy múa lung linh theo gió ở trên cây, cả thân thể và đôi chân
được thã lõng, nhưng đầu óc thì nghỉ ngợi lung tung. Chúng tôi đói lắm rồi, số
gạo anh Đạt lượm được còn ít, Bà An đòi nấu hết, ăn một bữa no rồi ra sao thì
ra, bà nói biết có sống được nữa không hay để chết làm ma đói. Với con số của
đoàn người là 21, mà gạo còn vài lon, nấu hết 1 lần ăn cũng chã bõ bèn gì. tôi
nhìn bà, mới có mấy ngày thôi mà bà gầy tọp hẳn đi, đôi mắt trũng sâu, má cóp
lại, lòng tôi cảm thấy xót xa. Bà An hiền lắm, rất đôn hậu, bà nhẹ nhàng, mong
manh dể vỡ, mỗi lần đến nhà chị Bích chơi, tôi thích nhìn vẻ đài các của bà, bà
ưa làm nũng với ông An, và ông lại rất thích điều đó, ông cưng chìu bà, tâm hồn
ông đầy ắp thơ, tôi thích vì ông bà là một đôi vợ chồng lý tưởng; những người
con của ông bà là: Anh Aí lớn nhất Chị Bích, Anh Đạt, Hằng, Khải, Luật,
Minh, Kiều, Ty rất hiếu thảo và rất thương yêu đùm bọc nhau, Khải là người nóng
tính hay cáu gắt nhưng lại là một chàng trai lãng mạn dể thương. Cả gia đình
bây giờ chỉ biết nương tựa vào Đạt và Khải, hình như anh Đạt cảm thấy áp lực đè
lên vai anh thật nhiều và thật nặng, anh không thể để cho ai nãn lòng gục ngã,
anh cũng không chịu "ăn một bữa cho no rồi ra sao thì ra;" chúng tôi
bám víu vào ý chí và tinh thần của anh để có sức lực tiếp tục cuộc hành trình.
- Húp mỗi người một lưng cháo, phải dè xẻn chút gạo còn lại, đường đi còn xa
lắm - Tôi kéo tay Hằng nằm xuống bên tôi, nói cho Hằng nghe tôi thèm một chén
cơm nóng, một tô canh rau dền, một khứa cá kho mặn...
Khải đem tới cho tôi ca nước: - Thủy
uống cho khỏe.
Gió hiu hiu làm cho tôi buồn ngủ
nhưng anh Đạt hối mọi người chuẩn bị hành trang lên đường, bao giờ gần tối mới
được ngừng lại, nấu cháo ăn rồi ngủ để mai đi tiếp.
Bà An khóc: - Mợ đói và mệt lắm rồi
con ơi.
Tôi thấy anh Đạt quay lưng chùi nước
mắt, mấy đứa nhỏ ngơ ngác nhìn bà ngoại khóc cả bé Lan nửa, trong đôi mắt các
cháu cũng muốn nói lên điều bà An vừa nói: đói và mệt; Hớn lên tiếng: "
-Thôi, anh Đạt để Ngân lấy hết gạo đó nấu cơm, mình có nhiều cách kiếm thức ăn
mà, nhưng cũng nên đi thêm một đoạn nữa rồi hảy nghĩ "câu nói này làm
cho mọi người lên tinh thần được một chút nhưng anh Đạt nói cứ từ từ sau hẳn
nấu. Bà An nín khóc, đoàn người đi thêm được một lúc; cho tới khi trời đã ngã
về chiều anh Đạt mới chịu ngừng, nơi đây có một con suối nhỏ nước trong veo.
Chúng tôi mỗi đứa tìm một gốc cây ngồi dựa lưng, mấy đứa con gái nhỏ làm như
không hề lo buồn sâu sắc như người lớn, chỉ cần được nghĩ chân là ngồi chụm vào
nhau nói cười vui vẻ, Thấm giải thích rất đơn giản: "có mấy anh lo rồi,
tụi em chỉ biết nghe theo, làm theo mà thôi, lo thêm cũng đâu giải quyết được
gì, lúc này đang được ở cùng nhau thì cứ vui vẽ vối nhau, ai biết ngày mai sẽ
ra sao;" đó là một câu triết lý rất hay. Hằng hỏi tôi đang nghĩ gì, có nhớ
nhiều đến pleiku không? riêng Hằng đang nhớ anh Sơn ghê lắm, tôi cũng như Hằng
mà thôi; cũng đang nhớ đến một người không nên nhớ; mà vì yêu người đó nên bây
giờ tôi mới phải ngồi đây, yêu làm chi cho nặng lòng, vì nặng lòng nên thấy
nặng đôi chân; mà chân đã nặng thì đi không được nhanh, bước không được xa...
yêu nhiều thì lo lắng nhiều, mà lo lắng nhiều thì... mệt lắm, hai đứa bật cười
với những câu ví von của mình, cười xong hai đứa nhìn quanh; sao không thấy
bóng dáng của mấy người con trai đâu cả? đi đâu hết rồi? chị Bích nói: - hai cô
lo nhớ nhung lung tung, mấy chàng đi kiếm lương thực, tôi tiếc rẽ "uổng
quá, phải chi mình đi…;" mải một lúc anh Đạt và đám con trai mới nối đuôi nhau đi về, trên tay mỗi người ôm một thứ, Khải
huýt sáo vui vẽ, tất cả để "chiến lợi phẩm;" xuống trước mặt ông bà
An và chị Bích; đó là 1 trái bí ngô, 15 trái bắp, 2 trái đu đủ chín và 3 cây
mía dài, "cả nhà " mừng vui hí hững; Minh cười cười khai ra: "đây
là những tứ chôm được trong làng;" Khải nói "- làng vắng hoe chắc là
họ bỏ làng mà đi như tụi mình "- Anh Đạt phân công: mấy đứa con gái có
nhiệm vụ tách hết hôt bắp ra khỏi cùi bắp, mấy đứa con trai hàm răng khỏe thì
cắn bể hột, mỗi tối trước khi đi ngủ Ngân bỏ một ít vô cái nón sắt mà ngâm nước
qua 1 đêm là nó mềm, sáng dậy sớm nấu sẽ mau chín, Khải chặt mấy cây mía ra
từng khúc để dành lấy nước cho bé Ly bú. Chúng tôi vui vẽ thi hành mệnh lệnh
của anh Đạt, cứ xem như đây là một trò chơi, vừa làm vừa nói đủ mọi thứ chuyện
trên trời dưới đất, Khải chặt mấy cây mía, anh tước vỏ mía, rồi xuống sông lấy
nước súc miệng, xong chạy lên ngồi gần tôi, chị Bích đưa Khải bình sữa, Khải
nhe 2 hàm răng nhá nhá cho nước mía chảy vô bình, cũng không nhiều nhưng cũng
làm cho bé Ly tạm no, anh Đát lấy 2 lóng mía chẻ làm 4 rồi bẻ làm 2 chia cho
ông bà An và mấy đứa nhỏ, còn mấy đứa tôi thì chờ cho mấy đứa bé ăn xong nhả
xác mía ra là lượm lại nhai và rít đến chừng nào cái bã mía khô rang mới bỏ.
Đạt nhỏ không ngồi cắn hột bắp nữa, anh chàng rủ Hưng; Phi; Minh làm 1 cái
bếp nướng trái bí, tôi chán trò tách hột bắp vì đau tay quá chừng nên rủ Hằng
đi theo, Khải cũng đi theo tôi, Đạt nhỏ đào 1 cái lổ hình tam giác, sai mấy
đứa tôi đi lượm củi khô mang về rồi bẻ những cành nhỏ bỏ xuống lổ trước, Khải
lấy 2 cục đá chà mạnh vào nhau làm nóng rồi đánh cho tóe lửa; hì hà hì hục mải
mới nhóm được bếp, Minh đem về mấy nhánh cây khô lớn đút vào "lò;"
lữa bốc nhanh Đạt nhỏ đặt trái bí lên trên lò, vừa chờ trái bí chín vừa nói
chuyện, Hằng cười chê Khải: "có diêm quẹt của Hớn đưa không chịu nhóm lửa
cho nhanh, làm kiểu này mất thời gian, đói bụng gần chết đây;" Đạt nhỏ
nói: "còn phải chờ tới lúc tàn lữa, rồi vùi trái bí ủ trong tro nóng nó
mới chín được bên trong ruột"- "sao Đạt giỏi vậy;" - "thì
đi nhiều, học hỏi nhiều nên biết được nhiều thứ,"
Buổi tối sau khi mỗi người được ăn
một miếng bí ngô nướng chín khét, mùi thơm của vỏ bí bị cháy cùng vị ngọt của
nó làm đê mê đầu lưởi; chúng tôi ăn miếng bí ngô nướng bằng cả mắt; mũi và miệng.
Hình như trời bắt đầu vào mùa mưa, cũng gần cuối tháng 3 rồi, dù nằm giữa đất
trời mênh mông; nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy nóng bức ngột ngạt. Từ rất xa có
tiếng nổ ầm...ì… lẻ tẽ vọng lại; những tiếng nổ gieo vào lòng chúng tôi vài tia
hy vọng nhỏ nhoi, chúng tôi suy đoán lung tung. Không ngủ được chúng tôi ngồi
quây lại thành vòng tròn, tâm sự cho nhau nghe chuyện của mình. Hưng, Phi kể về
những tháng ngày vùng vẩy trên nền trời xanh, biết bao thành phố họ đã ghé qua;
những phi vụ hiểm nghèo thoát chết trong gang tất; Hưng lái L19; Phi lái C130,
đóng quân ỏ Nha Trang, Phi đoàn 114; biệt phái lên Ban mê thuột và bị kẹt lại,
tôi muốn hỏi về 1 người nhưng lại thôi... Khải hỏi tôi có nhớ những cành phong
lan ở sau vườn nhà không? tôi nói:-" nhớ lắm, nhớ cả thành phố Pleiku đến
nhức nhối tâm cang," Khải kể cho mọi người nghe những lần hành quân của
Khải; Khải chỉ đi tìm phong lan trên cây thay vì tìm vc dưới đất, kể từ ngày
phải đi lính chưa bao giờ Khải bắn vào một ông vc nào cả dù đôi khi có thấy họ;
Hưng nói: - còn tôi; những lần bay thám thính trên vùng đất nghi là có vc,
nhiều khi nhìn xuống thấy bên dưới lố nhố, tôi gọi về tổng đài báo sai tọa độ,
pháo binh bên mình cứ theo tọa độ tôi báo mà bắn... - Anh Đạt thở dài: - Thế
nên bây giờ tụi mình mới ngồi đây, anh cũng chưa hề bắn vc dù anh là lính.
20/03/1975
Một ngày như mọi ngày, vẫn thức dậy
thật sớm, ăn một ít bắp, bó chân cho kỷ rồi lên đường, ai cũng bước đi với
những bước chậm chạp, dừng lại để nghỉ nhiều hơn vì có lắm lí do; cứ đi chừng
vài mươi bước "đôi giày vải " bị lệch; tuột ra khỏi bàn chân là phải
nghỉ để sửa lại, hơi mỏi chân là nghĩ... Hôm nay những bước chân của chúng tôi
nặng như đeo đá... Khát nước chút xíu cũng... nghỉ; anh Đạt không cho uống
nhiều nước, mỗi lần khát chỉ được hớp 1 ngụm thôi. Chúng tôi mong trời mau tối
để được nghỉ lâu và được ngủ 1 giấc dài. Ngày nôm nay không có gì đáng ghi nhớ
ngoài việc khi dừng chân nghỉ trưa, Mạnh tách ra khỏi đoàn; đi đâu đó một lúc,
khi về Đạt nhỏ cầm theo 1 cái thùng đựng nước và giải thích:
- Không phải lúc nào mình cũng đi
được gần sông, có khi phải đi sâu trong rừng, cần có cái thùng đựng nước để
dành, lúc nảy tôi thử ra ngoài đường; ghê lắm; mùi thối nồng nặc đồ đạt củng
nhiều như khoãng đường hôm trước anh em mình đi lượm đồ, thấy cái thùng đựng
nước; mừng quá trời.
Sắp hoàng hôn, nắng chiều đang rong
chơi trên những ngọn cây cao, mây chiều bàng bạc trôi lờ lững; cảnh vật mờ
trong sương, anh Đạt cho mọi người nghỉ sớm hơn hôm qua. Chị Bích biểu Ngân nấu
hết gạo nhưng cái nón sắt đâu nấu được nhiều, chỉ phân nữa số gạo còn lại là đã
đầy nón rồi. Mùi thơm của cơm chín bốc cao chui vào lổ mủi tôi quyến rũ quá,
những hạt cơm trắng nỏn nà đựơc Ngân xới bung lên bằng hai que tre rừng nằm
phơi bày trước mắt chúng tôi làm ai cũng chảy nước miếng. - "Ưu tiên cậu
mợ với chị Bích được ăn nhiều, sau đó đến mấy đứa nhỏ, cuối cùng là chúng
mình;" - Anh Đạt chia phần như vậy, một cái nón sắt cơm với 22 người ăn
thì đâu có được bao nhiêu…Trước khi cho nắm cơm vào miệng; tôi nhắm mắt đưa lên
mủi hít một hơi thật sâu cái mùi thơm của nó, thât tuyệt vời... nhưng... -
"Cô Thủy ơi con ăn chưa no, cô cho con thêm miếng nữa đi…" tôi mở
mắt, bé Lan đứng bên tôi, nhìn tôi một cách van lơn; theo phản ứng tự nhiên của
con người, tôi ngậm miệng lại tính nuốt hết, nhưng... tôi đành phải nhả ra cho
bé 1 miếng nhỏ bằng ngón tay cái, lòng không mấy vui;- "Có ai được no đâu
con;" … Tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình; tôi... phàm phu tục
tử quá đi thôi... tôi khinh tôi đến ứa nước mắt; ăn có một miếng cơm lạt nhách
mà cũng làm như thưỡng thức... một mâm cơm thịnh soạn không bằng; lại còn keo
kiệt với một đứa bé… đang lúc chết lúc nào không biết.
Đạt nhỏ mở radio rà tìm đài VOA; -
Bây giờ là 21 giờ ngày 20 tháng 3 năm 1975 Hôm nay tin tức xấu hơn hôm qua làm
chúng tôi buồn quá, đứa nào cũng nao núng trong lòng, dạy sữ địa và cũng thích
chính trị nên tôi biết cao nguyên Daclack, Kontum, Ban mê Thuột là vùng chiến
thuật và chiến lược vô cùng quan trọng; năm 1956 ông Ngô Đình Diệm có chính
sách di dân lên các vùng cao nguyên nói trên để lập nghiệp; Ông đã đặt trên đó
các cứ điểm Quân Sự quan trọng: Bộ chỉ huy của Sư Đoàn 6 Không Quân đóng tại
Pleiku mà phi trường Cù Hanh là căn cứ chính; Sư Đoàn 23 Bộ Binh, rồi Biệt Động
Quân; Lôi Hổ... và đơn vị Pháo Binh đóng ở núi Hàm Rồng; nhiều lắm... và nhiều
lắm; toàn là những sư đoàn thiện chiến nhằm để giữ vững miền đồng bằng, vì
những cao nguyên nói trên có độ cao và núi non chập chùng hiểm trở. Để mất cao
nguyên cũng có nghĩa là để mất đồng bằng, chỉ cần quân Bắc Việt chiếm được trên
đó, họ sẽ tràn về đồng bằng như thác lũ và sẽ cuốn trôi đi tất cả những gì có
trên đường. Lúc còn ở Pleiku, nghe tin tức chiến sự; thì ngày 10 /3 /75 VC khởi
công đánh mạnh vào BMT để dứt điểm, sau đó Pleiku được lệnh di tãn; ngày
15/3/75 là ngày Pleiku được lệnh phải di tãn hoàn toàn chỉ để lại một
thành phố trống rỗng, và ngày 16/3/75 là ngày chúng tôi rời khỏi
thành phố Pleiku. Đêm nay là đêm thứ 3 chúng tôi ngủ trong rừng, và là ngày
thứ 5 của cuộc di tản. BMT, Ktum và PKu đã mất; có thể nay mai vc sẽ tràn về
Nha Trang khi mà họ đang ở thế mạnh. Cuộc chiến này sao mà phi nhân quá; làm
cho nhiều người chết oan uổng, đau thương, tức tưởi, làm cho chúng tôi phải
trốn chui trốn nhủi trong rừng; chịu biết bao nhiêu đói khát khổ sở. Cả một
Quân Đội hùng mạnh oai phong, đẹp đẽ, được trang bị đầy đủ từ dưới chân lên đến
đỉnh đầu, mà phải bỏ chạy vì những người rất tầm thường như 2 người mà chúng
tôi đã gặp; đáng buồn chưa?... Một chàng lính lãng mạn như Khải: đi hành quân
chỉ thích hái lan rừng đem về ngắm; không nở bắn vào kẻ thù không hề biết mặt;
một chàng phi công lái máy bay thám thính lúc nào cũng báo sai tọa độ... và bây
giờ cùng ngồi với nhau nơi đây, giữa rừng già nghe tin chiến sự mà lòng cay
đắng thấy hình như mình cũng có lổi phần nào...
Khó ngủ quá, đêm nay không ai muốn
nghe nhạc, mỗi lần nhắm mắt tôi lại thấy máu nhuộm đỏ sông Êpa và cả sông Adun,
rồi cảnh người ta cuống cuồng dẩm lên nhau mà chạy, rồi tiếng khóc la, gào
thét, rồi tiếng súng pháo kích ầm... ầm... cứ vang vọng mãi như vẫn còn ở đâu
đây; rồi những bàn tay quờ quạng, những đôi chân giẩy giụa... tất cả cứ luẩn
quẫn trong đầu tôi, bàng hoàng nhức nhối,... Hằng bóp tay tôi thở dài: -
- Cố ngủ đi Thủy, nghĩ ngợi làm gì
thêm nhức đầu, cũng đừng nhớ những chuyện đã qua, chẳng giải quyết được gì, tụi
mình chỉ là những con sâu cái kiến mà thôi.
Đêm nồng nực, có lẻ ngày mai trời sẻ
mưa, cơn mưa đầu mùa... Anh ơi;Có biết bao nhiêu chiều mưa hai đứa mình bên
nhau, tay trong tay hạnh phúc tuyệt vời; hả anh? tôi cố ngủ…nhưng những nỗi nhớ
như mang đôi giày sắt gót nhọn cứ nhãy múa trong trái tim tôi bằng nhiều vũ
điệu làm cho tôi đau nhói…
21/03/1975
Qua một đêm oi nồng, sáng nay thức
dậy nhìn lên trời thấy mây nhiều và nặng nhưng vẫn chưa mưa. Nồi bắp đã chín;
tôi xuống sông, bên bờ sông có chừng 10 hố nhỏ lưng lững nước, Kiều đang múc
từng ca nhỏ đổ vào ấm, anh Đạt kêu mọi người ăn bắp rồi còn lên đường, bắp được
nấu mềm, bỏ vào miệng nhai thật chậm; thật kỉ để cho vị ngọt; bùi của bắp ngấm
thật lâu; thật sâu trên đầu lưỡi và trong vòm miệng sau đó mới nuốt từ từ vô
bụng…
Lại đi tiếp, đôi giày tự chế lót
bằng lá rừng và bó lại bằng vải áo; cột bằng vỏ cây tước nhỏ cũng làm êm bàn
chân hơn là phải đi chân trần; mỗi người lớn tự làm cho mình một đôi, riêng
phần My Cò và bé Lan thì tôi làm. Tôi nói với Hằng quẵng hết những ưu tư phiền
muộn trong lòng để nhẹ người để mà đi cho được nhanh, Hằng cười hát:
"đường về còn xa xa lắm, xin người " Chị Bích la " - xin người
đứng lên đi dùm tui;" Anh Đạt và Khải dẫn đầu, chúng tôi theo sau; vừa đi
vừa kiếm mấy buôn thượng để xem có thể lượm mót được chút ít thực phẩm của họ
trồng quanh làng, đi một đoạn anh Đạt lại mở bãn đồ ra xem rồi cùng bàn bạc với
Khải, Mạnh... Đoàn tàn quân chúng tôi bây giờ có vẻ lôi thôi lắm; lúc thì được
vào trong rừng đầy bóng mát, lúc thì phải đi ở mé sông không một bóng cây, nóng
quá thì cứ để nguyên đồ trên người lội xuống sông cho mát xong lại lên bờ: ướt
nhẹp mà đi tiếp, nhờ nắng, gió làm khô quần áo, đi và đi; không nghĩ ngợi suy
tư gì, cũng không thèm buồn hay nhớ, cả một đoàn người lầm lủi, cặm cụi, lặng
im nối đuôi nhau thành hàng đi như nhũng kẻ mộng du, cho đến khi cái đói làm
thúc tỉnh mọi người. Chân tay bủn rủn, hai đầu gối run run, mắt mờ, tai ù,
miệng khô:- đói lắm anh Đạt ơi; cậu Đạt ơi cháu đói… ngừng ngay lại… may quá
bên kia kìa, đó thấy chưa; một cái chòi canh rẫy của người thượng, chúng tôi
chạy ù đến lùng sục khắp chòi mà chẳng thấy gì, chỉ có Khải kiếm được một gói
muối nhỏ dấu thật kỷ trên mái chòi;chia nhau mỗi người một hột, vị mặn của muối
tan ra trong miệng; dù sao nó cũng làm cho tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong người
hơn một chút. Mạnh đoán:- rẫy này đả gặt hái lâu rồi;có lẽ từ mùa trước nên
không còn gì; nay họ bỏ. Cả đoàn nghỉ lại nơi đây;nấu cơm ăn rồi đi tiếp, số
gạo còn lại đươc nấu hết, chị Bích dặn Ngân nấu nhiều nước để có nước hồ cho
bé Ly bú. Tôi ngồi cạnh chị nắm bàn tay nhỏ xíu của Ly Ly; bé toét miệng cười
rồi phun nước miếng phì phì. Cơm chín, đây là những hạt cơm cuối cùng, tối nay
và ngày mai sẽ như thế nào? rồi những ngày sau và sau; sau nữa, làm sao đây?
Lúc này thì tôi không còn cảm hứng hay tâm trí gì nữa để mà thưỡng thức miếng
cơm đang ngậm trong miệng; dù đó là miếng cơm cuối cùng... Tôi nói với Khải:
- Anh ơi, Thủy buồn ngủ với lại mệt
lắm; nói anh Đạt khoan hẳn đi.
Bà An cũng đòi nghỉ thêm lâu lâu một
chút; mắt bà van lơn như muốn khóc; ông An ôm bà vào lòng dổ dành, tôi nhìn kỷ
bà mà thương bà quá; đôi mắt bà trõm lơ; sâu hoắm;gò má tóp lại với da mặt sạm
hẳn; nét mặt bà bơ phờ mệt nhọc với hơi thở nặng nề; đâu rồi một người đàn bà
tươi đẹp đài các mà tôi rất ngưỡng mộ; anh Đạt có vẻ buồn, anh nói chỉ sợ cứ
nghĩ ngơi mãi rồi đâm ra nghỉ ngợi nhiều chỉ làm mọi người dể nãn lòng, anh
cũng mệt lắm;trách nhiệm là cả một áp lực đè nặng lên vai anh; đó là cha mẹ;
chị em và các cháu của anh, anh phải đưa tất cả đến nơi mong muốn được bình an,
nguyên vẹn. Mặc dù tất cả mọi người trong gia đình chị Bích rất
thương quí tôi; nhưng không hiểu sao tôi vẩn mang mặc cãm mình cũng
đóng góp phần nào gánh nặng cho anh Đạt nói riêng và cả gia đình anh
nói chung, ý nghĩ này cứ đeo đẳng tôi mãi kể từ ngày theo gia đình
chị cùng đi di tãn, ngữa tay nhận một nắm cơm hay được chia một chút
phần ăn là tôi lại áy náy…nhưng cái đói làm cho con người ta không
còn gìn giử được sĩ diện hay lòng tự trọng, và tôi đang chính là
con người đó, tôi buồn lắm nhưng không thể bày tỏ cùng với ai…
Dù là ban trưa nhưng mặt trời đang
bị mây che phủ; gió mát hiu hiu, giữa một nơi thanh vắng như thế này
giá như mà được ngũ một giấc thì thật là sung sướng; nhưng giấc ngũ
không dễ gì đến với tôi khi mà tôi cứ ưa suy nghĩ lung tung, hết suy
nghĩ lại nhớ nhung, hết nhớ nhung lại buồn rầu. Những đám mây trắng
chen lẩn cùng mây xám lặng lờ trôi…ước gì tôi được như là những đám
mây kia nhỉ? Chỉ biết trôi đi và trôi đi mãi theo chiều gió thổi, không
ưu tư phiền muộn, chẵng nhớ nhung buồn sầu…như tôi.
Phải cố gắng lắm tôi mới rủ
bỏ được những nổi buồn, lo và mặc cảm trong lòng mình để đi vào
giấc ngủ, tuy chỉ là một giấc ngủ ngắn thôi nhưng cũng đủ mang đến
cho tôi đôi chút thư thái trong tâm hồn và một ít sức lực để đi tiếp
chặng đường dài không biên giới, không biết ngày được ngày tới đích.
Khải đang ngồi bên cạnh tôi, anh cười khi tôi vừa mở mắt thoát ra khỏi
giấc ngủ xế chiều, cảm ơn Khải vì anh đã ở bên cạnh tôi lúc này,
tôi vươn vai ngồi dậy đưa mắt nhìn mông lung ra phía xa xa của chân
trời…Tương lai sao mà mờ mịt quá, đường đi thì có lắm chông gai, mọi
hiểm nguy lại luôn luôn chờ chực chúng tôi.
Vì trời không có nắng, cũng
chẳng có mưa, mà chỉ êm êm; dìu dịu, như những ngày đầu mùa Thu của
xứ Huế , nhìn màu mây xám nhẹ trôi lờ lững ở lưng trời, tôi nhớ da
diết thành phố Pleiku và ngôi trường Trung Học Pleiku, nhớ đập nước
Phú Thọ, ngôi giáo đường nhỏ của cha Nam, đó là nơi có nhiều kỷ
niệm của tôi và anh ấy, tôi bồi hồi với sắc trời, với không gian nơi
đây, vào lúc này và chợt làm nhớ đến bốn câu thơ của Hồ Dzếnh mà tôi
rất thích lúc vừa mới quen anh:
"Trời
không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa"
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa"
Khải nhìn lên trời; hình như đang
khóc. Anh Đạt an ủi cả nhà: "- cố đi thêm một đoạn đường nữa thôi, anh sẽ
kiếm một nơi thật nên thơ để chúng ta nghỉ lại đêm nay; bây giờ vẫn còn sớm;
nghỉ lúc này uổng thời gian lắm." Cả đoàn người uể oải đứng dậy đi tiếp,
không biết được bao nhiêu đoạn đường, chỉ biết trời đã về chiều, anh Đạt lại
muốn tìm khúc sông hẹp để vượt qua bên kia, chúng tôi tới gần một nhánh phụ lưu
của con sông cái Êpa, còn xa lắm mới gặp được con sông chính, đành phải dừng
chân nghỉ ngơi thôi, nhưng mà…mọi người ai cũng đói cả, phải có cái gì đó có
thể ăn được;bỏ vào bao tử mà ngủ cho qua một đêm, cứ vừa đi vừa bứt bất cứ
thứ lá cây gì không có mủ là bỏ vô miêng mà nhai, mà nuốt, không
biết chúng tôi ăn được bao nhiêu thứ lá cây trong rừng, mổi thứ lá có
một mùi vị khác nhau…nhưng cái đói thì quá ư dể sợ, chẵng những
vậy còn phải nhìn lên cao; biết đâu gặp một cây gì đó có trái ăn được…thế
là chúng tôi trở thành những chàng và những nàng Thi sĩ bất đắc dỉ; không
tìm thi hứng mà chỉ lo tìm…cái ăn, Đạt nhỏ chạy lên trước anh Đạt, anh
chàng nhảy qua qua 1 cái hố nhỏ và reo lên:
- Có rồi... một cây sung nhiều trái
lắm.
Mọi người chạy tới chổ Mạnh và
cùng nhìn lên cây, những trái sung tròn; dẹp giống như trái vã xứ Huế quê tôi
nhưng nhỏ hơn, bám chi chít trên thân cây, Đạt nhỏ leo lên nhanh như một con
sóc, anh ta hái những chùm trái chín thả xuống, chúng tôi đưa tay chụp; tôi nắm
vạt áo trước chìa ra để hứng, anh ta lại la oai oái "kiến, kiến quá trời,
nó cắn... ái dà..."
Anh Đạt lựa những trái lớn nhất đưa
cho bố mẹ, chúng tôi ngồi lựa những trái lớn chia nhau; cũng không nhiều gì
mấy, mỗi người chỉ vài trái. Bé Lan, Ty anh, Ty em, My cò ngồi mân mê đếm những
trái sung trên tay; lựa chọn - "trái này ăn liền nè; trái này để dành
nè;" rồi mấy đứa nhỏ đưa lên miệng cắn, đứa nào cũng nhăn mặt, nhắm mắt
lắc đầu: "chát quá mẹ ơi; con không nuốt được;" chị Bích dổ dành:-
"cố nuốt đi các con, nhìn ông bà, mẹ và các cậu; các dì đây này..."
chị Bích nhai trái sung mà nước mắt chị lăn dài trên má, cũng may còn mấy lóng
mía để dành cho Ly Ly. Tôi cắn làm đôi trái sung, trong ruột của nó màu hồng,
với những sợi tơ mịn màng như nhung giống ruột trái vả; mùi thơm của nó thật
dể chịu nhưng khi ăn… không dể đâu, Khải nói cắn từng miếng nhỏ xíu nhai từ từ
mới nuốt được, phải kiếm một trò chơi gì đó liên quan tới ăn để có thể nuốt
trái sung vô bụng, Hằng cắn một miếng hát: 1, 2, 3 là con gà bước ra…(nuốt;
chát quá) 4, 5, 6 là con gà chảy máu…(nuốt; ái dà) 7, 8, 9, là con gà sắp chín…
(nuốt)... mấy đứa nhỏ với trò chơi của dì Hằng đã ăn được vài trái sung, Trong
đoàn người đi này có 2 bà mẹ đang nhìn các con mình mà chảy nước mắt; đó là Bà
An và chị Bích. Khải đến ngồi gần tôi buồn bã:
- Thủy có hối hận khi đi chung với
gia đình anh không?
- Thủy không nghĩ gì hết, nhưng nếu
không đi chung với gia đình anh; Thủy cũng chẳng biết mình như thế nào nữa,
thành phố vắng hoe; Thủy thì không có người quen, lúc đó Thủy sợ lắm… à, anh
Khải, anh đừng gắt với mợ anh; Thủy thấy thương bà quá.
Khải im lặng thở dài; mắt nhìn đâu
đâu, anh lấy tay vẻ nghệch ngoặc xuống đất, rồi nói với tôi:
-Nhiều khi nhìn mợ anh đau lòng lắm
chỉ muốn khóc; nhung hể mỗi lần thấy mợ khóc là anh rối cả ruột; mợ chịu khổ
không quen. Thủy biết không; cứ chui rúc mải như thế này anh muốn điên lên mất;
may mà có em; đời còn dễ thương... để mà đi tiếp, Thủy có nhớ lúc còn ở pleiku;
mỗi chiều được đến trường đón Thủy đi dạy về anh vui lắm, nhưng anh cũng rất
buồn vì em lúc nào cũng chỉ nghỉ đến anh chàng pilot kia.
Tôi sợ nghe những lời tâm sự này của
Khải, vì làm sao mà tôi quên được; có biết bao nhiêu kỷ niệm, biết bao nhiêu
buổi chiều anh Bang đến trường đón tôi, lúc đó chúng tôi không muốn rời nhau dù
chỉ trong chốc lát, nhắc chi cho thêm buồn, rồi sau đó… tôi cũng nhớ có những
buổi chiều khi dạy xong tôi về; nhưng vừa ra đến cổng trường thì thấy Khải
đang đứng chờ tôi, với bộ đồ lính mặc trên người; tay mân mê cái nón nỉ, trông
Khải vừa phong sương lại vừa có vẻ nghệ sỉ, anh chàng nhìn tôi cười ngượng
ngùng, e ngại... đã xa thật là xa... làm sao mà quên được... cũng may anh Đạt
đứng dậy vươn vai; ẹo lưng - cho giãn gân cốt - anh nói thế, tôi biết lại phải
chuẩn bị lên đường nữa rồi. Đoàn người tiếp tục đi cho tới khi gặp một nơi thật
đẹp anh Đạt mới cho ngừng. Tôi nhìn quanh; nơi đây thật tuyệt vời, chúng tôi nghỉ ở ven
rừng, phía dưới là giòng sông uốn khúc quanh co, chiều lắm rồi và chiều nên thơ
quá; như một câu thơ tôi thuộc từ thủa bé: " "trời chiều bãng lãng
bóng hoàng hôn, mấy cánh chim bay tận cuối trời…" Ở đây có tới 22 cánh
chim lận. Màu trời chiều lúc nào cũng làm cho tâm hồn tôi nhức nhối; lòng cảm
thấy buồn mênh mang, chơi vơi.
Đêm xuống nhanh; sương đêm mõng
trắng bàng bạc bao phủ chung quanh. Ông bà An; chị Bích, mấy đứa con gái và
những cháu bé đã ngủ say, chỉ còn lại những người "lở cở;" như tụi
tôi xuống bờ sông ngồi tâm sự, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chuyện nam
tào bắc đẩu rồi đến chuyện của từng đứa, anh Đạt, Khải… so sánh với anh Hưng,
Phi chuyện người bay trên trời, người hành quân trong rừng, bay trên trời thấy
toàn là trời xanh mây trắng, còn đi trong rừng chỉ có cây cối và gai góc...
nhưng trong rừng đẹp lắm, nên thơ lắm, đầy hoa bướm lạ... Tại sao đêm nay không
ai buồn ngủ? hay cũng như tôi "ngổn ngang trăm mối tơ vò."
Nữa đêm có tiếng sấm sét gầm rú rung
chuyển trời đất, những tia chớp màu xanh lạnh tóe sáng rực trời trông thật
khủng khiếp, gió thổi mạnh và cơn mưa trút xuống như thác đổ mà không báo
trước, mưa đầu mùa lớn quá; chúng tôi giật mình thức giấc cuống cuồng tìm những
lùm cây rậm chui vào, không cảm thấy đau đớn vì bị trầy xướt; thật buồn cười,
núp mưa kiểu này chẳng khác nào: lấy vải thưa che mắt thánh Nước từ trên cao đổ
xuống, len lỏi qua mọi ngỏ ngách không chừa một chổ nào, chúng tôi cố gắng co
mình lại; nghỉ rằng càng cuộn nhỏ người bao nhiêu càng đở bị ướt bấy nhiêu, mấy
đứa bé được người lớn ôm chặt trong lòng. Chúng tôi vừa ướt; vừa lạnh cọng thêm
cái đói ập đến bất ngờ nên run cầm cập, run như cầy sấy, lúc này thì nước mắt
cũng tuôn trào lai láng hòa cùng với nước mưa, vị mặn của nước mắt; vị ngọt
lạnh của nước mưa chảy vào miệng; thấm vào lưỡi chúng tôi ngon khó tã. Ngồi
khum lưng mỏi rã rời mà vẫn cứ ướt "như chuột lột;" tôi liều chui ra
khỏi lùm cây; nằm dài trên nền đất, lắng nghe cảm giác những sợi nước nhỏ đang
chảy dưới lưng mình; vừa nhột nhạt lại vừa như được ai đó đang xoa vào lưng:
nhẹ nhàng; êm ái; mơn man, nước từ những chiếc lá trên cao rơi xuống mặt, xuống
người tôi lành lạnh như có những mủi kim châm vào...
Cuối cùng thì cơn mưa cũng tạnh,
nhưng sấm chớp vẫn xẹt ngang xẹt dọc trên bầu trời đêm; ánh sáng xanh lè như
lưởi thép vừa ma quái vừa hung hãn đe dọa chúng tôi. Sau một hồi ra oai thì sấm
lặng; chớp tan, chúng tôi ngồi chụm lại với nhau, chị Bích mừng rở vì lúc trời
vừa đổ mưa, Khải, Minh, Đạt kịp lấy cái poncho nhà binh chùm cho bố mẹ và cái
sacmarin đựng áo quần và những giấy tờ quan trọng của gia đình (và tôi cũng là
người trong gia đình), nhưng ngày mai cũng vẫn phải xem lại mọi thứ. Mọi người
đều lạnh nhưng không làm sao đốt được lữa để sưởi ấm, đành ôm nhau; lấy hơi
người mà sưởi ấm cho nhau. Khải hỏi tôi: - Thủy sợ không? Tôi khóc: -Ai mà
không sợ; hỏi lạ chưa.
CHÂN MỀM TRÊN ĐÁ
KỲ
THỨ 4
22/03/1975
Mãi gần sáng chúng tôi mới ngủ
được, giấc ngủ của sự mệt mỏi, của một đêm dài ướt mưa, khi thức giấc thì
nắng đã lên cao, hôm nay trời đẹp quá, từng cụm mây trắng lững lờ trôi trên
nền trời trong xanh. Tất cả những áo quần, đồ đạc trong sacmarin được lôi ra
phơi nắng;dù không bị ướt nhiều thì cũng ướt ít, rất may là những giấy tờ;
bằng cấp; và cuốn sổ nhỏ để trong cái ví học trò của tôi không bị ướt, tôi
thử lại cây viết của Paker cha tôi tặng sau khi đậu tú tài; không bị sao cả,
còn được 1 ống mực secour, cái ví học trò là món quà của người chị tinh thần
tặng khi tôi lên Pleiku, nó to bằng cuốn vở, đựng được nhiều giấy tờ và vài
thứ linh tinh, may mà có nó, tôi mừng quá... Mấy trái sung hôm qua để dành;
sáng nay lấy ra ăn, cũng hơi quen vị chát của nó nên nuốt dể hơn một chút.
Trải qua một đêm mưa lớn, hôm nay nước sông dâng cao và đục ngầu; đang cuồn
cuộn chảy, đó là nước trên nguồn đổ về;lúc này dòng sông không còn hiền lành;
êm dịu và nên thơ nữa, tiếng nước ầm ầm mạnh như thác đổ; hung hăng đầy sự đe
dọa cho chuyến đi này của chúng tôi, nhưng dù có như thế nào thì tôi vẫn thấy
con sông này thật đẹp, tôi rủ Hằng xuống bờ sông ngồi để nắng làm khô quần áo
trên người mà đêm qua mưa làm ướt hết, anh Đạt vẫn tính chuyện vượt qua bên
kia sông, Hằng ưa hát:- này người yêu... tôi than với Khải: - cứ lội qua, lội
về hoài - , Hằng cười vì: - bên kia sông là ánh mặt trời - Hôm nay chúng tôi
lên đường rất trể, trời mới nắng đẹp đó mà đã chuyển qua hanh rồi, mây từ đâu
tụ lại thật nhiều trên không, đêm nay xin đừng mưa như đêm qua. Một đoàn
người với những đôi chân mang giày làm bằng lá đi theo sau lưng anh Đạt, Hưng
nói:
- Chắc tôi bỏ cuộc thôi, tại sao
cứ phải chịu khổ sở như thế này,
Anh Đạt gắt nhẹ: - ông đừng làm
nản lòng "chiến hữu " chứ, nếu muốn quay trở lại thì tùy, nhưng tôi
vẫn phải đưa gia đình tôi đi tiếp - . Mặc dù Hưng nói vậy nhưng vẫn đi theo
với chúng tôi, bây giờ thì tiến thoái lưỡng nan rồi. Tất cả chúng tôi mỏi rã
rời như muốn bịnh vì trận mưa đêm qua nhưng vẫn phải lê từng bước theo anh
Đạt, con đường đầy chông gai, khi thì leo dốc; lúc xuống đồi, có khi lại
quanh co uốn khúc. Rừng thật đẹp; tôi vừa đi vừa nhìn ngắm chung quanh, đến
một nơi quá đẹp chúng tôi ngừng lại để nghỉ, Khải nằm dài lên một thân cây bị
ngã trong rừng, anh chàng nhìn lên trời; tay se se cánh lá vàng miệng hát
"she nowt when I love somme; "…tôi thích nghe Khải hát, giọng Khải
nhẹ nhàng du dương, Mạnh đi loanh quanh đâu đó rồi mang về một mớ trái giống
trái sung nhưng nhỏ hơn; đựng trong vạt áo, Mạnh nói đây là trái Ngái - cùng
họ với trái Sung - mùi của nó lại thơm hơn, ăn được dù cũng rất là chát;
không thua gì trái sung, cốt yếu làm sao cho đở đói mà đi tiếp, Đạt nhỏ
khuyên mọi người hảy cứ đi, đừng nghỉ ngợi chi cho lắm mà mất tinh thần, cứ
coi như là cả nhà đi cắm trại trong rừng. Hằng, Minh, Khải và tôi thích ngồi
đây lâu hơn vì nơi đây đẹp quá, tâm hồn chúng tôi để dàng rung động trước vẽ
đẹp của thiên nhiên dù bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu... Nhưng thôi; phải lên
đường.
Hôm nay thật là may, chúng tôi gặp
1 buôn Thượng nhỏ, lơ thơ mấy mái nhà rông, chúng tôi mừng quá ghé vào. Trong
buôn vắng vẽ, chỉ có vài người già và con nít, họ bu lại nhìn chúng tôi có vẻ
tò mò rồi chỉ chỏ líu lo nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ của họ, hình
như họ cũng biết chút ít tiếng Kinh. Anh Đạt dùng tất cả khả năng điệu bộ
mình có để nói chuyện với họ, anh đưa tay chỉ vào bụng của chúng tôi nói một
chử "đói;" rồi chỉ lên miệng, vẻ mặt anh buồn như muốn khóc, sau
cùng anh nói một tiếng "ăn;" người đàn bà thượng hỏi giọng lơ ló:
"người kinh xin cái ăn hớ?" tất cả chúng tôi vội vã gật gật đầu, bà
ta và mấy người đứng bên cạnh bỏ đi, một lát sau họ quay lại, mỗi người đeo
một cái gùi sau lưng, họ ngồi xuống trước mặt chúng tôi rồi lôi những thứ
đựng trong gùi ra, khoảng 10 trái bắp khô, 1 trái bí, 3 trái đu đủ, một nải
chuối, người đàn ông đứng bên bà (có lẻ là chồng) lắc lắc đầu ra dấu với
chúng tôi, ông ta nói "nghèo nhiều, nghỉ; nghỉ xuống..." Đạt nhỏ
giải thích: " ổng nói là họ nghèo lắm, ổng kêu tụi mình ngồi ở đây
nghỉ." chúng tôi mừng rở cảm động cám ơn họ. Tôi rủ Hằng, Khải, Minh xin
họ đi quanh trong làng, cũng bằng một vài điệu bộ và mấy chử ngắn gọn, họ
hiểu và gật dầu, thế là mấy đứa tôi lang thang trong buôn làng người thượng,
tôi cảm xúc bởi vẻ đẹp hoang sơ ở nơi đây, sự gần gủi với thiên nhiên trong
cuộc sống của họ tạo cho họ có một tâm hồn mộc mạc, trong sáng, bình dị, tấm
chân tình của họ mang đến cho chúng tôi sự cảm thông và chia sẽ, Minh reo
lên, cậu bé đưa tay chỉ về một góc ở cuối làng; nơi đó có một bụi mía cao,
Hằng mừng quá vổ tay reo: "- xin mía cho bé Ly bú đi Khải " . Bốn
đứa quay về nơi cả nhà đang ngồi, Hằng kể anh Đạt nghe, lại quơ tay ra dấu
lại nói lơ ló mấy tiếng, người đàn ông gật đầu quay đi, lát sau đem về đưa cho anh Đạt 5 cây mía, chị Bích mừng
đến ứa nước mắt; thế là bé LyLy có 1 bình nước mía bú ngon lành, Mạnh hỏi
mượn cây dao (ngoài Huế kêu là cái rựa), có dao; Đạt nhỏ cạo sơ vỏ cây mía
rồi chặt mỗi cây làm 5 khúc để bó lại cho gọn, ông An nói anh Đạt chia cho
mỗi người 1 lóng mía. Lóng mía chỉ dài chưa bằng 1 gang tay nhưng ngon và
quí biết là bao, chúng tôi tước vỏ ra; cắn gảy từng miếng nhỏ nhai thật kỷ;
ép cho ra hết chất nước trong lóng mía, nó ngọt ngào như không có thứ gì ngọt
hơn. Tôi rủ Khải:-" mỗi lần gặp làng Thượng tụi mình xin họ cho tụi mình
đi lùng quanh làng, vui ghê," Khải cười gật đầu.
Nhờ có một ít lương thực của những
người Thượng tốt bụng mà chúng tôi cảm thấy trong lòng phấn chấn nên đi nhanh
hơn, đến quá trưa chúng tôi mới nghỉ chân, Đạt nhỏ chuẩn bị nướng bí, mấy
trái đu đủ đã chín vàng nên anh Đạt xẻ ra chia cho mỗi người 1 miếng nhỏ, chị
Bích lựa miếng chín nhất cho bé Ly ăn, bé mút mút miếng đu đủ rồi vổ tay cười
thích thú. Trưa và chiều nay cả đoàn được ăn nhiều đồ ngọt, thật là sung
sướng, số bắp khô được tách hột cắn nhỏ chiều nay sẽ nấu, tối mới được ăn,
nhưng chỉ ăn phân nửa mà thôi, phân nữa dành sáng mai ăn lấy sức mà... đi,
còn nải chuối chưa được chín thì để dành. Ngồi buồn Mạnh nảy ra sáng kiến lấy
râu bắp làm sợi thuốc lá, còn lá bắp thay giấy vấn bên ngoài, thế là các anh
con trai có được những điếu thuốc lá bằng râu bắp hút cho đở ghiền, ngồi với
nhau phì phèo nhã khói lên trời;cả nhà khen Mạnh nức nở, tôi và Hằng, Minh
cũng bắt chước nhưng chịu không nổi, ho sặt sụa, bị chị Bích la cho một tăng.
Rừng bao giờ cũng đẹp, đầy bí ẩn và nhiều nguy hiểm mà chúng tôi thì cứ phải
đi trong rừng, sông lúc nào cũng nên thơ, nước sông lúc nào cũng mát dịu nhưng
gặp cơn mưa lớn, sông bổng thét gầm dữ dội và chúng tôi lại không thể đi xa
được con sông.
Mấy hôm nay cứ lẩn lút trong rừng,
men theo sông, theo suối mà đi, đêm nằm ngủ thì cứ ngã lưng trên đất, trên
cát hoặc trên lá cây rừng, cái đói là bạn thường trực với chúng tôi, hình như
không ai có ý niệm gì về thời gian nữa, cứ sáng đi; trưa nghỉ, xế trưa đi;
chiều nghỉ... riêng tôi; tôi chỉ ghi đươc rất ngắn gọn vào quyễn sổ nhỏ của
mình, để không quên ngày tháng và những chuyện đã xảy đến với chúng
tôi. Tôi nằm trên đám lá khô dưới một gốc cây lớn, hai tay khoanh lại làm gối
kê đầu nhìn lên trời, những đám mây trắng nõn nà lẫn trong màu xám bạc đang
lững lờ bay dưới nền trời xanh, đẹp quá đi thôi... Đang lim dim buồn ngủ thì
bé Lan rụt rè đến bên tôi, tự nhiên tôi cảm thấy thương nó quá, mấy hôm nay
tôi đã thờ ơ; vô tình với nó dù bé vẫn lặng lẽ đi bên cạnh tôi, vẫn thích
nắm lấy tay tôi; thế nhưng trong lòng tôi vẫn không có sự hiện diện của bé
Lan hay của Hưng; Phi, tâm hồn tôi vẫn cứ lãng đãng nơi đâu dù chân vẫn
bước; mắt vẫn nhìn. Bé Lan cũng bơ vơ như tôi, số phận của bé còn thê thãm
hơn tôi vì bé không biết cha mẹ bé đang ở đâu? còn sống hay đã chết? còn tôi,
tôi biết cha mẹ mình còn ở Nha Trang, đang yên lành chờ mong tôi về nhà. Tôi
nhìn bé Lan và lòng bổng dưng thương bé quá, tôi nắm tay bé kéo xuống nằm
bên tôi, mái tóc bé rối bời, nó đưa bàn tay gầy trơ xương lên đếm:
- 1 nè; 2 nè; 3 nè... cô ơi mình
đi được mấy ngày rồi hả cô? sao đi hoài vẫn chưa về tới nhà hả cô?
- Mình đi đươc 5 ngày rồi, làm sao
cô biết được chừng nào mới về đến nhà, cứ đi theo chú Đạt là về tới nhà thôi.
- Cô ơi; chắc ba má cháu đã về nhà
rồi đó cô, kỳ lắm cô, buổi tối hôm đó cháu đang ngủ ngon tự nhiên ba má kêu
cháu dậy, ba má bồng em bé, dắt tay cháu nói là cả nhà mình đi chơi xa, - bé
òa khóc - cô Thủy ơi cô biết ba má cháu đi đâu không? cháu nhớ quá cô à.
- Nín đi con, kể cô nghe ở nhà bé
Lan làm gì? ba má làm gì?
- Ba đi lính, má bán hàng ngoài
chợ, cháu biết quét nhà bồng em cho má. Cô ơi, cháu kể cô nghe; hồi đêm cháu
mằm mơ thấy ba má với lại bé Xíu nhìn cháu cười mà sao cháu kêu hoài không ai
chịu nghe, cháu buồn lắm đó cô, cô Thủy ơi, mình đừng đi với chú Đạt, cháu
mỏi chân lắm, cô đưa cháu về nhà cháu nghe cô...
Làm sao nói cho bé Lan hiểu bây
giờ? Tôi ngồi dậy ôm bé Lan vào lòng, dấu mặt tôi vào mái tóc khét nắng của
bé, tôi khóc thầm, có biết bao câu hỏi nhưng không có được một câu trả lời,
chính tôi đây; tôi cũng không hiểu nổi tại sao và vì sao.
Khải đến ngồi bên tôi, hai đứa
nhìn xuống dòng sông bên dưới; Khải mơ mộng:
- Nơi đây đẹp quá Thủy nhỉ, anh
không muốn đi tiếp nữa, hay… em ở lại cùng anh...
Tôi cười:
- Ở đây để làm người tiền sử hả?
Khải không sợ chết đói à? rồi đủ mọi thứ thiếu thốn…
Khải ngắt lời tôi:
- Vậy chứ người Thượng họ cũng
sống được đó thôi.
Tôi lắc đầu:
- Họ khác; mình khác.
- Ối dà, đừng lo; ngày ngày anh đi
kiếm đồ ăn đem về cho Thủy, bất quá mình cũng làm rẫy như họ…
Tôi xô Khải ngả chổng chân lên
trời:
- Anh làm như tụi mình đóng phim
kiếm hiệp vậy đó, cứ xách kiếm te te đi chơi, không làm gì mà cũng có cơm
ăn, vậy là tụi mình giống... cái bang rồi…
Có tiếng Hằng cười khanh khách sau
lưng:
- Con nhà Khải mơ mộng quá trời,
em tôi lại sống trên mây rồi.
Mấy đứa tôi cùng cười lớn, bao
nhiêu ưu phiền mệt nhọc theo tiếng cười bay đi mất. Anh Đạt đứng ở trên đồi
vổ tay ra lịnh:
- Mấy đứa, mau mau mang giày vào;
đi tiếp. Mất nhiều thời gian lắm rồi đó nghe," -"Đi thì đi..".
Tôi sửa lại đôi giày cho bé Lan; tôi nói với bé mai cô sẻ gội đầu cho bé, từ
bây giờ tôi sẽ chú ý chăm sóc cho bé, gần gủi với bé nhiều hơn; tôi nhớ đến
giấc mơ bé kể lúc nảy và tôi sợ... Tôi nhìn lại nơi tuyệt đẹp này, cũng có
phần nào lưu luyến, Khải lôi tay tôi: "còn nhiều nơi đẹp lắm; đi thôi"
Đang đi thì Đạt Nhỏ lượm được 1
miếng cơm cháy khô queo dính cát nhỏ bằng bàn tay nằm cạnh 1 cái chốt của
vc, Đạt Nhỏ bẻ ra chia cho mỗi người 1 miếng nhỏ xíu bằng lóng tay, chúng
tôi gở cát dính trên đó rồi bỏ vào miệng ngậm, nước miếng làm mềm những hột cơm
cháy, thèm cơm quá đi thôi.
Anh Đạt mở bản đồ ra xem; hiện giờ
chúng tôi đang ở khoãng giữa dòng sông Adun và nhánh nhỏ của sông Êpa, chương trình của anh Đạt là đưa mọi người ra khỏi khu rừng
này, cặp theo sông, gặp được khúc sông nào cạn sẽ lội qua, khi qua được bên
kia sông rồi thì... tiếp tục đi trong rừng, bám dọc theo đèo Măngyang; từ đó
xuôi xuống theo sông Êpa về đến Tuy Hòa. Ý nghỉ về lộ trình này cứ đeo bám
trong đầu anh Đạt, đã mấy ngày rồi mà chúng tôi chưa tới được sông Êpa, hiện
giờ đoàn người đang ở trên 1 ngọn đồi cao, phía đưới là 1 nhánh sông nhỏ, có
vẻ sâu, anh Đạt hối mọi người phải đi nhanh mới được, anh chỉ vào mấy điểm
màu trên bản đồ và giải thích cho chúng tôi biết: nơi nào có dân, nơi nào là
sông, nơi nào là đường.... v… v… nhưng nhũng nơi như thế này chỉ có người dân
tộc thượng dựng làng sinh sống, còn người kinh thì ở đồng bằng, phố thị. Anh
Đạt nói phải đi làm sao để chiều mai đến được chấm đen này, anh chỉ cho tôi
xem "cái chấm đen;" ấy trên bản đồ, tôi chẵng hiểu và chẵng
nhìn ra được cái gì cả. Thật tình tôi thấy anh Đạt thế nào ấy, hể ở bên
này sông thì anh chỉ mơ tưỡng bên kia sông; mà qua bên kia sông rồi anh lại
muốn về lại bên này. Bà An phải dựa vào ông An mà đi, bà có vẻ mệt ghê lắm,
hôm nay bà không nói chuyện với các con, bà cũng không cười với các cháu, có
lẻ bà bịnh?
Chiều xuống rất nhanh, khi chúng
tôi dừng chân là khi trời nhá nhem tối, Ngân đang nấu số bắp đã xin được lúc
trưa, bao nhiêu người lớn là bấy nhiêu cái "máy cắn bắp;" người nào
cũng bỏ vô miệng vài hột; cắn bễ làm đôi, vừa làm vừa nói chuyện tiếu lâm
chọc cho nhau cười, Khải đang ép mía cho bé Ly Ly bú, chị Bích nằm dài trên
đám lá khô, Bé Ly nằm trên người chị đang ra sức bú những giọt sữa rất hiếm
hoi của mẹ. Tiếng anh Đạt vang lên phá tan sự im lặng của mọi người:
- Ngày mai sẽ vượt sông, đoạn sông
này không sâu lắm, chừng ngang ngực của mình thôi, mấy người lớn cõng mấy
cháu bé trên vai, còn các cô bám vào nhau mà lội qua, đồ đạt thì khi đưa các
cháu qua rồi, quay trở lại mang đồ sang. - Ông An hỏi:
- Làm sao con biết là cạn, nhỡ như
khúc sông này sâu thì sao? nguy hiểm lắm con ạ.
- Con vừa thăm dò xong, không sâu
đâu cậu à, phải cố mà đi cho nhanh, mùa mưa đến sớm như thế này mình dể bị
kẹt ở trong rừng…
Anh Đạt bước ra chổ khác ngồi,
nhìn anh có vẻ đăm chiêu; tôi biết anh đang rất lo. Tôi hỏi riêng anh Đạt:-
"bên kia sông có gì mà sao anh cứ bắt mọi người chạy qua chạy lại hoài,
đi như hình ziczac vậy đó ?" -"Anh cũng không biết bên kia sông có
gì nữa, nhưng có cái gì đó cứ thôi thúc anh phải qua bên kia; dù rằng sau
khi qua bên kia rồi anh lại thấy... phải trở lại bên này, tự nhiên anh cảm
thấy mình không phải là mình mà là ai đó, nói ra sợ cả nhà lo, Thủy giữ kín
cho anh." Anh Đạt nói với tôi điều này xong; hình như anh có vẻ nhẹ đi
một chút; nhưng tôi lại cảm thấy lòng mình trở nên nặng nề hơn. Hưng thắc
mắc: -"Tại sao không ra đường cái quan mà đi, tôi biết đèo Măngyang đẹp
lắm đó, chứ mình cứ đi mãi trong rừng như thế này biết bao giờ mới tới Tuy
Hòa, mà biết đâu về tới đó, nó cũng mất như pleiku. "
Anh Đạt gắt: - Đã là mình đang cố
tránh vc, ra đường nhựa là gặp họ ngay, lúc đó họ lùa mình về lại Pleiku, rồi
bắt mình đi nô dịch khổ sai có mà chết, còn đi trong rừng như thế này có
nhiều hy vọng về đến Nha Trang, Nha trang có mất thì mình vượt biên vào Sài
Gòn...
Những điều anh Đạt nói làm cho mọi
người bồi hồi, lòng đầy hy vọng và phấn chấn tinh thần, tôi nhớ cha mẹ tôi
lắm, nhớ hàng dừa trước sân nhà, nhớ giếng nước trong veo ngọt nhất vùng, nhớ
nhà thờ Vĩnh Phước... nhớ bãi biển cát trắng, nước xanh, và tôi như nghe được
tiếng sóng vỗ rì rào… rì rào... Ngày mai sẽ "sang sông;" chưa bao
giờ tôi nôn nao như vậy, tôi nói với Hằng:-" sông này sao giống... sông
Bến Hải; nó chia cắt đôi bờ, nên mình cứ muốn qua bên kia." Chúng tôi gồm
những người như: Anh Đạt, Hưng, Phi, Khải, Mạnh là những quân nhân, chị Bích,
Hằng và tôi là những giáo sư, còn Minh, Hoa, Kiều, Ty, Ty Anh, là học sinh...
Và thêm nữa là Ông Bà An; đang ngồi bên này sông để mơ về "nơi bình yên
chim hót ".Mỗi chiều khi ngừng nghỉ Hằng lại hát "này người yêu,
Người yêu tôi ơi…" bên kia sông, rồi bên kia nữa; có anh bên đó không?
Tôi nhớ; tôi mong; tôi chờ đợi và tôi suy tư, cuộc chiến này hoàn toàn phi lý
và phi nhân mà cái chết là sự kết thúc không báo trước. Cả một thành phố nhốn
nháo, cuống cuồng chạy trốn vì sợ, một nỗi sợ vô hình, mà sự sợ hãi rất dể
lây lan, nó như một bịnh dịch không sao ngăn chặn nổi, vc hay quá, đã làm cho
người dân sợ chết khiếp, nhất là những gia đình có người đi lính... mà nhà
nào lại chẳng có người bị đi lính và phải đi lính kia chứ, đó là sự bắt
buộc rất hiển nhiên và tự nhiên thôi.
Trời tối dần, phía bên kia sông
chỉ còn là một màu tím thẫm, nồi bắp cũng đã nhừ, chúng tôi mỗi người chỉ
được một nắm bắp, bắp của người Thượng trồng thật ngon; nó vừa ngọt vừa bùi
lại vừa dẻo, mùi thơm dể chịu. Tôi bỏ vài hột vào trong miệng; nhai thật lâu,
thật kỷ để cảm nhận thật đầy đủ những hương vị đặt biệt của từng hạt bắp, dù
sao cũng cứ nghỉ rằng: "ăn là một nghệ thuật;" và làm bớt đi cái
phàm tục của mình, tôi nuốt thật chậm để cho cổ họng mình cũng được hưỡng
nhờ cái vị ngon của bắp…, bé Lan lại đến bên tôi, tôi đếm đúng 10 hột chia
cho bé ( thật ra là chỉ 5 hột đã cắn làm đôi). Chỉ sợ đêm nay trời đổ mưa,
anh Đạt moi từ dưới đáy sacmarin lấy ra cái poncho, phòng hờ trời có đổ cơn
mưa, dùng nó để che mưa thật là tuyệt. Buồn quá, chúng tôi rủ nhau ra mé bờ
sông ngồi chơi, trên trời có những vì sao đang lấp lánh, một số ngôi sao đã
bị mây che phủ. Bà An đang ngồi nói chuyện với Kiều, Ty và mấy đứa cháu, tôi
nghe tiếng bà cười vui; lâu lắm rồi; kể từ ngày leo kên chiếc GMC đến nay mới
nghe được tiếng cười của bà, mấy đứa chúng tôi vui lây. Tôi ôm bé Lan vào
lòng; đu đưa nhè nhẹ, Hưng; Phi tới ngồi gần tôi; chúng tôi nói chuyện, hỏi
thăm nhau, kể từ lúc nhập vào đoàn nhà chị Bích, đây là lần đầu tiên 3 đứa
tôi nói chuyện nhiều với nhau, Hưng hỏi tôi đủ thứ chuyện, tôi kể cho 2 người
nghe đại khái đôi chút về mình:
- Cha mẹ tôi ở Nha Trang, quê tôi
làng Phủ Cam; Huế; cha tôi là Dân Biểu Quốc Hội khóa 2 của thời ông Ngô Đình
Diệm, Dòng họ HỒ - ĐẮC, lúc nhỏ tôi học trường JEAN - D'ARC, sau Mậu Thân cả
nhà vào Nha Trang, học trường Lê Qúi Đôn, đậu tú tài 2 lên Đà Lạt học đại học
Văn Khoa và Sư Phạm, rồi xin lên Pleiku dạy, ở nơi tận cùng bằng số đó chẳng
sợ ai để ý kỷ luật vì tôi ưa gom giờ dạy lại gần liền nhau; dành những giờ
trống để bay lên Đà Lạt chơi.
-Thủy dạy trường nào? Kể cho tụi
anh nghe chuyện của Thủy đi.
- Tôi dạy trường Nam Trung Học
Pleiku, môn Văn - Sử - Địa, học trò của tôi có đứa cao bằng cô giáo, trường ở
trên đường Hoàng Diệu; nằm giữa trường Tuyên Đức của Tàu và Trường Phao Lồ
của các Soeur, trên một ngọn đồi; qua khỏi trường đến cuối con đường, qua bên
kia đường có một thung lũng, tôi đặt tên là Thung Lũng Hồng, vì mỗi sáng sớm
ra đó nhìn xuống dưới thấy cỏ có màu phớt hồng của nắng, đẹp lắm.Ngoài
những giờ dạy ở trường Pleiku tôi còn dạy thêm môn Pháp Văn của
trường Tư Thục Minh Đức 2 ở Phú Thọ…
Phi nói đùa:
- Học trò lớn mà cô giáo còn
nhỏ như thế có bị xảy ra chuyện vòng tay học trò không?
- Cũng có vài lá thư tỏ tình của
mấy "chú bé con" mới lớn, đọc cũng vui vui.
Anh Phi cũng ở Nha Trang, phi đoàn
114, lên Ban Mê Thuột bị kẹt lại, phải di tãn bằng đường bộ, anh hỏi tôi:
- Khải là gì của Thủy? rồi chị
Bích, Hằng...
- Tôi dạy cùng trường Nam Tr. học
với chị Bích, với lại cũng dạy trường Minh Đức 2 ở Phú Thọ chung với Hằng,
tụi mình đang đi cùng với cả gia đình chị Bích, Bố mẹ của chị là ông bà An,
cả nhà kêu bằng cậu mợ vì ngày xưa ở ngoài Bắc gia đình chị thuộc giới quí
tộc, Đạt là em kế, rồi đến Hằng, Khải, Luật, Minh, Kiều, Ty, còn Thấm là em
vợ của anh Đạt, mấy cô nhỏ kia là em họ của chị, anh hỏi Khải là gì của tôi?
tôi cũng không biết nữa, nhưng Khải lãng mạn và hát rất hay, còn Minh là 1
chàng trai đang lớn, đúng hơn đó là một thiếu niên rất dễ thương, rất tình
cảm; chững chạc, ít nói, tâm hồn sâu sắc lắm đó... mà thôi, sao tôi nói nhiều
quá, tôi sẽ không nói thêm nữa đâu.
- Thủy kể chuyện hay lắm đó? với
lại Thủy có cái răng khểnh rất xinh… biết không?
Tôi cười:
- Biết chứ, ai cũng khen như vậy.
Khải từ trên dốc chạy xuống kêu tôi "- Thủy ơi; mợ gọi em kìa;"
Khải nắm tay tôi kéo đến chổ bà An, tôi hỏi: - mợ nói gì con? -con biết từ
lâu, cậu mợ quí con lắm, mợ mong khi về đến Sài Gòn con sẽ là con của cậu mợ
nhé; con đồng ý không?.
Tôi không trả lời được câu hỏi của
bà, nhất là vào lúc này, sự sống còn không biết có giử được hay không đây nói
gì đến chuyện xa vời kia, tôi không trách bà, lúc này bà đang vui trong lòng,
niềm vui hiếm hoi ít ỏi mới tìm lại được. Thời gian đến chơi với gia đình chị
Bích là thời gian tôi đang sống ngập trong nổi đau khổ và nhung nhớ, tôi loay
hoay tìm kiếm cho mình một phương thuốc để xoa dịu nổi đau đớn đó; nhưng tất
cả chỉ là tạm thời trong chốc lát mà thôi. Đã khuya lắm rồi, anh Đạt ra lịnh:
-Thôi nào, mọi người đi ngủ thôi.
Mợ đừng làm cho Thủy bối rối, cứ để mọi chuyện được tự nhiên mợ à ,(cám ơn
anh Đạt lắm lắm).
Đêm nào cũng thế, hể nhắm mắt dổ
giấc ngủ là tôi lại thấy những ánh chớp bừng lên, rồi sắt thép cùng xác người
tung lên cao, rồi máu đỏ thắm đất, máu nhuộm cả một giòng sông, văng vẳng bên
tai tiếng khóc la kêu gào, là tiếng nổ rung trời chuyển đất, những hình ảnh
của chết chóc cứ ám ảnh tôi, nó ở mãi trong đầu tôi chẳng chịu buông tha cho
tới lúc tôi phải khóc một hồi rồi mới ngủ được. Đêm nay ngồi nói chuyện với 2
anh chàng phi công này, tâm hồn tôi hơi xao xuyến bâng khuâng vì họ ở cùng
phi đoàn của anh ấy... ngày xưa...
23/03 /1975
Mặt trời lên cao; nắng ban mai
nhảy nhót trên những ngọn cây; len lỏi vào từng kẻ lá như những sợi chỉ vàng
óng ánh, nắng chiếu vào mặt, nắng soi vào mắt, lúc đó chúng tôi mới thức dậy,
anh Đạt là người nôn nóng lên đường mà cũng dậy trể như mọi người, chúng tôi
nhào xuống sông, nước mát lạnh làm cho chúng tôi tỉnh táo. Một ngày mới đầy
tươi đẹp, đầy màu sắc: mây trắng, trời xanh, nắng hồng óng ã, gió thì dìu dịu
phất phơ... nếu không vì chuyến đi về vùng tự do đầy gian khổ này; mà được ở
lâu nơi đây thì thích quá. Mỗi người chúng tôi được 1 nắm bắp như đêm qua, ăn
xong chuẩn bị hành trang lên đường. Hôm nay bà An có vẽ rất mệt mỏi hơn bao
giờ hết, hình như sức khỏe của bà rất kém.
Sáng nay chúng tôi phải lội qua
sông, sau cơn mưa đêm hôm nọ nước trên nguồn đổ về dâng cao và chảy mạnh nên
chúng tôi phải mò mẩm từng bước mới lội qua được bên kia bờ, con trai phải đi
làm 2 chuyến: sau khi cõng mợ và các cháu nhỏ qua bên kia rồi, phải lội
ngược trở lại; đội đồ đạc trên đầu, mỗi người nắm tay 1 đứa con gái dắt qua,
đến giữa dòng Ngân loạng choạng trượt chân ngã xuống, 2 tay chới với đang lúc
nước chảy mạnh, chúng tôi la hét vang cả một góc trời, cũng may Hớn kéo tay
Ngân lên kịp. Khi tất cả chúng tôi qua sông được an toàn, mọi người ngồi nghỉ
mệt, ai cũng hú hồn hú vía vì chuyện vừa rồi, áo quần đứa nào cũng bị ướt,
thôi thì cứ để nguyên trên người nhờ nắng hong khô, chỉ mấy đứa bé là không
bị ướt, dù sao cũng phải cố mà đi tiếp. Một đoàn người áo quần sũng nước đội
nắng mà đi; lôi thôi; lếch thếch như một đám ăn xin du mục, cũng chẳng khác
nào một lũ điên, đâu rồi hình ảnh của những chàng Sĩ Quan QĐVNCH oai phong
lẫm liệt, đâu rồi hình ảnh của các quí cô tiểu thư khuê các? bây giờ thì mất
hết cả rồi, chỉ còn một đám... tàn binh trông rất thê thảm.
Nắng nóng bỏng, trời oi bức nồng
nực không có lấy 1 ngọn gió, tôi thở khó nhọc; lổ mũi như có khói bốc ra,
mắt tôi cay mờ, đầu nặng như đeo đá, chân bước không muốn nổi, anh Đạt thì
luôn miệng hối:" -nhanh lên nào, sao mà chậm quá cứ như là rùa
bò," Tôi đi như người bị mộng du, bây giờ đến lượt cơn đói hành hạ
chúng tôi, đoạn rừng này không có trái gì để ăn, kể cả trái sung hay trái
ngái, một nơi hoang vu, không có con đường mòn nào để chứng tỏ có bước chân
của người Thượng; mà chỉ toàn là rừng cây với núi đá. Đạt Nhỏ ngừng lại
nói với anh Đạt:
- Phải để 2 bác và mọi người nghỉ,
không ai đi tiếp nổi đâu, bây giờ tất cả ngồi đây chờ tôi đi dọ đường, cố
kiếm 1 con đường mòn, có đường mòn là có làng thượng đâu đó hoặc là nương rẫy
của họ, tới lúc đó mình tùy cơ ứng biến.
Nói xong Đạt Nhỏ bỏ đi, chúng
tôi ngồi bệt xuống đất chờ đợi, không biết thời gian bao lâu Mạnh mới trở về,
mọi người chăm chăm nhìn anh chàng để đoán kết quả, Đạt Nhỏ thở ra có vẻ
nhẹ nhỏm: - Gần đây có một làng Thượng nghèo, nhưng vẫn tốt hơn là không có,
nào cùng đi...
Chúng tôi uể oải đứng lên đi theo
Đạt Nhỏ, len lỏi sâu trong rừng 1 tí, xuôi theo bóng nắng 1 đoạn rồi chếch
về bên trái gặp 1 con suối nhỏ (đổ về sông Êpa) nơi đây có 1 buôn thượng
nghèo nàn, với vài nóc nhà sàn chơ vơ hiu quạnh, anh Đạt mở bản đồ ra xem,
nhưng vì làng quá nhỏ nên chi không có trong bản đồ, nhưng theo trong này nếu
đi ngược lên phía đèo Măngyang thì nơi đó có 1 buôn làng lớn tên là AnTrưng,
nhưng nếu đi ngược lên phía trên là về lại… Nơi Chốn Cũ…Tôi chỉ vào mấy con
đường vẻ trên bản đồ, nói với anh Đạt:
- Ngày đầu gặp vc, đoàn mình ở gần
đèo Măngyang, mình cũng đã bò ra khỏi rừng để tới con đường này, rồi anh lượm
được bịch gạo với cái nón sắt, sau đó cả đoàn rút vô rừng, đi mấy ngày trời
mà cũng chỉ loanh quanh lòng vòng, lên đồi, xuống dốc, vô rừng ra suối, qua
bên kia sông rồi về bên này sông…đoàn mình đâu có đi được bao nhiêu đâu, nếu
bữa đó mình cứ đi thẳng xuống; không chừng mình đi được nhiều...
Anh Đạt nhíu mày: - Không phải
đâu, lúc anh và Khải bò ra lượm đồ, thì tụi mình ở gần buôn Hra, chỉ là đầu
đường đèo mà thôi, sau đó mình rút về đi theo sông Ađun -Thủy xem đây này -
anh Đạt chỉ vào 1 điểm trên bãn đồ - Ở đầu cây cầu này là nơi cả đoàn xe bị
chận lại, ngay Phú Bổn lúc đó vc pháo kích tưng bừng khói lửa, ngày gặp
mấy ông vc là tụi mình ở chổ này, sau đó bò ra quốc lộ, rồi lùi ngược sông
Ađun, vì sông này gần thị trấn Măngyang, không xa Hàm Rồng bao nhiêu, anh
phải đưa cả nhà đi băng rừng để tránh vc. Pleiku mất rồi, thành phố bỏ ngỏ
mà, thấy chưa.
À, thì ra là vậy, như vậy Phú
bổn là tâm điểm của Qui Nhơn, Ban mê Thuộc và Pleiku. Trong bản đồ có 1
con đường nhỏ tách ra từ QL19, con đường này cặp theo sông Êpa tới thị trấn
Cheo Reo, hai con sông Adun và Êpa gặp nhau nhập chung làm 1 dọc theo sông
này có 1 con đường lớn, con đường và giòng sông chạy song song với nhau đi
qua các buôn làng nhỏ, sau đó đến thị trấn KrongPa, cuối thị trấn là ranh
giới của Tuy Hòa... Như thế chúng tôi phải đi rất nhiều cây số đường rừng,
lại lên đồi; xuống dốc, lại loanh quanh loằng ngoằng nhưng dù sao khi gặp
được làng Thượng ai nấy đều vui mừng, thở phào nhẹ nhỏm.
Mặc dù đây chỉ là 1 buôn Thượng
nghèo nhưng có còn hơn không, đám con trai lại đi tảo thanh lương thực, Tôi
và Hằng dù mệt vẫn muốn đi theo nhưng bị la: chỉ vướng chân. Tôi nhìn quanh
chổ mình ngồi: nơi đây là một rừng tre dại; thân tre nhỏ bằng cườm tay của
tôi, không cao vút như tre làng Phủ Cam của tôi, nó cũng mọc từng bụi, chúng
tôi xuống sông rữa mặt, nước sông mát rượi làm dịu cơn mỏi mệt. Bao nhiêu lần
vượt sông là bấy nhiêu lần hy vọng, nhưng bên này sông hay bên kia sông cũng
thế mà thôi, vẫn chỉ là sự hoang vắng, là rừng cây; bãi cát cùng với sự thinh
lặng của không gian. Tôi cảm thấy chung quanh mình mịt mù vây phủ không lối
thoát. Chiều nay; ngồi trên đồi với một rừng tre xanh mướt, tôi nhìn xuống
dòng sông bên dưới, tôi nghỉ về mình, tôi tìm tôi trong kỷ niệm, kỷ niệm của
tôi lãng đãng mờ hơi sương, tại sao tôi cứ mãi nhớ nhung về những tháng ngày
đã qua? đi như thế này lắm lúc tôi muốn nổi loạn, muốn gào thét thật to, rồi
tôi lại muốn khóc; khóc thật lớn, khóc cho bể cả không gian mà trút tất cả
mọi thứ đang chất chứa trong tâm hồn tôi để không còn lại một thứ gì, cho tâm
hồn tôi được nhẹ nhàng thanh thãn.
Bé Lan lay lay vai tôi làm tôi
tỉnh "cơn mê;" trở về với thực tại, bé đưa tay chỉ ngược lên phía
trên giòng sông:
- Cô Thủy ơi, xem kìa;
Tôi nhìn theo tay bé chỉ và reo
to:
- Có người kìa, chị Bích ơi, Hằng
ơi, lẹ lẹ lên...
Đó là 2 người Thượng đen thui, một
đàn ông và 1 đàn bà, tôi đoán đó là 2 vợ chồng, họ đang lưới cá ở khúc sông
phía trên, tôi nắm tay bé Lan chạy tới gần để xem, 2 người họ; mỗi người 1
bên, 2 tay cầm 2 góc của 1 miếng vải mùng dài độ 3m; 2 góc cho chìm sâu dưới
nước, 2 góc ở phía trên, họ cúi sát xuống cho tấm vải nằm dựng đứng theo
chiều ngang ngăn dòng nước rồi đi tới từ từ, sau đó họ nâng tấm vải lên theo
thế nằm ngữa, trên tấm vải mùng có mấy con cá nhảy lưng tưng, chúng tôi ngạc
nhiên lẩn thích thú nhìn cảnh lưới cá đơn sơ mộc mạc này, họ làm đi làm lại
nhiều lần như vậy, số cá lưới được, họ xâu vào 1 thanh tre chẻ nhỏ, sau đó
treo trên một cành cây ven sông, ở trên bờ chúng tôi lẻo đẻo đi lên đi xuống
theo 2 người đó (trông chúng tôi lúc này thật buồn cười, như 1 bầy con nít
khù khờ tội nghiệp). Nhìn những con cá của họ; đứa nào cũng... thèm. Mấy
chàng trai sau khi "tảo thanh lương thực;" họ mang về mấy trái bí,
đu đủ, chừng chục trái bắp, tôi chạy lên lôi tay Khải xuống, mấy người con
trai chạy theo, Minh vổ tay reo lên:
- Mình bắt chước họ, lấy cái mùng
bắt cá đi anh Đạt.
Cả một khúc sông đầy tiếng reo vui
của đám trẻ nhỏ và người lớn. Vậy là cái mùng có thêm 1 công dụng, khi 2
người thượng lên bờ đi về nhà họ, anh Đạt, Khải, Minh, Đạt Nhỏ, Phi, Hớn
nhào xuống sông, 6 chàng trai với 1 cái mùng vật lộn với giòng sông kiếm cá,
vui quá là vui, mỗi lần kéo tấm mùng lên trong đó có mấy con cá vùng vẩy Ty
Anh, Ty em, My cò, bé Lan vổ tay reo hò, chị Bích bồng Ly ly xuống coi mấy
cậu bắt cá, sinh hoạt này điễn ra một cảnh thanh bình vui vẽ, chúng tôi tạm
rời xa mọi thực tại đáng buồn. Mãi đến khi trời tắt hẳn nắng chúng tôi mới
kéo nhau... "tung tăng đi về nhà ".
Số cá lưới đựơc là 27 con; to bằng
ngón tay cái, mấy trái đu đủ chỉ mới chín hườm, Chị Bích dặn Ngân lấy cá nấu
canh với đu đủ, cho vào 1 chút muối (gói muối Khải cất kỉ lắm nên khi trời
mưa vẫn không bị ướt), ấm nước dùng để nấu canh, còn cái nón sắt nấu bắp, thế
là... bao nhiêu người là bấy nhiêu cái máy cắn bắp, chúng tôi vừa làm vừa nói
chuyện vui đùa. Ôi chao; nhờ những con cá bé nhỏ mà chúng tôi có được niềm
vui lớn, cùng với một luồn sinh khí mới thổi vào tâm hồn mỗi người trong
chúng tôi.
Tối nay chúng tôi được ăn canh đu
đủ nấu với cá, chất tanh của cá hòa quyện với vị ngọt của đu đủ, vị mặn của
muối sao mà ngon, mà quyến rũ quá đi thôi, cọng thêm với những nắm bắp vừa
dẻo vừa thơm lại vừa bùi... những thứ đó cùng đưa vào miệng ngậm chung với
nhau... Ai ơi đừng nuốt vội, hảy cứ nhai từ từ mà thưỡng thúc; mà cảm nhận;
thích lắm đó, hảy cứ ngậm cho lâu rồi phân tích từng vị một: đâu là ngọt; là
tanh; là thơm tho; là dẻo, bùi và mằn mặn…(sao tôi phàm tục thế)... Nhưng…tôi
đang thưỡng thức tinh hoa của trời và đất thôi mà.
Bà An đòi nghỉ ngơi vài ngày ở đây
vì bà rất mệt, hơn nữa ở lại nơi đây cũng vui;còn hơn là cứ lầm lủi đi mãi
trong rừng; nhưng anh Đạt không chịu anh muốn đưa cả đoàn đi tiếp, lòng anh
đang nôn nóng lo cho vợ và 3 con của anh. Anh cho rằng "mẹ nhỏng nhẻo
với bố;" với lại bà thiếu ý chí, tinh thần suy nhược nên cơ thể bị yếu
theo. Nửa đêm Bà An khóc, giữa rừng khuya; khi vạn vật đều thinh lặng, tiếng
khóc của bà nghe nảo nề làm sao, ông An vổ về bà, giọng ông nhừa nhựa vì đang
cơn ngái ngủ. Phía dưới kia là tiếng róc rách của giòng nước đang chảy về
xuôi, không ai ngủ được nữa vì tiếng khóc của bà An, Khải rủ tôi ra bờ sông
ngồi nghe Khải hát; vẫn là những bản nhạc của LOBO, giọng Khải sao mà buồn
quá. Tôi ngồi nơi đây mà nghe: giọng khóc tỉ tê của bà An, giọng vổ về buồn
ngủ của ông An, tiếng nước dưới sông đang chảy với tiếng hát của Khải buồn
buồn... tất cả đang xoáy sâu vào lòng tôi đau nhói, có ai trả lời được dùm
tôi : biết chừng nào chúng tôi mới ra khỏi nơi đây? Tâm hồn chúng tôi đều tan
nát như nhau, ai cũng có một nổi miềm riêng. Đêm về thường ưa suy nghĩ lung
tung và thường rất sợ hãi.
Trời lại không thương chúng tôi
rồi, nửa đêm bổng đổ cơn mưa lớn, mưa như thác nước trút đầu gềnh; lớn hơn
cả cơn mưa hôm trước, chúng tôi vội vã chui vào những lùm tre, ngồi thật sát
vào nhau cố tránh những giọt nước phủ phàng đang tuôn lên người chúng tôi một
cách vô tình không thương xót, mặc dù đang bị khốn khổ vì ướt; nhưng tôi vẫn
cố lắng tai để nghe những âm thanh của nước đang cùng nhau hòa tấu: Tiếng ầm
ầm từ trên nguồn đổ về nghe vọng dội, tiếng róc rách chảy qua các gềnh đá nhỏ
nhẹ êm tai, tiếng rủ rỉ khi nước lách qua những gốc cây và tiếng mưa rơi rì
rào... rì rào…trên lá. Sấm chớp xẹt sáng xang lè cả một góc trời, dù nhắm mắt
thật kỷ nhưng ánh sáng rợn người vẫn lóe trong mắt tôi nhức nhối. Tôi ôm chặt
bé Lan, bé cố thu người thật nhỏ; thật sát vào tôi; nó khóc nức nở, cả người
bé run rẫy trong lòng tôi làm tôi cũng khóc theo. Nước ở đâu trên trời mà
nhiều quá, trút xuống mải không ngừng nghỉ, không cạn nguồn, nước chảy qua
chân; qua mông đít, nước len lỏi vào từng ngóc ngách trên người chúng tôi làm
ước đẩm, lạnh buốt. Chiều nay được ăn một miếng canh cá nấu với đu đủ và một
nắm bắp hầm nhừ, niềm sung sướng hạnh phúc chưa tan thì đã phải trả giá bằng
một cơn mưa quá chừng quá đổi... mưa và mưa mãi...
24/03/1975
Mãi đến gần sáng mưa mới tạnh,
nước trên cao vẫn chảy mạnh len lỏi qua các khe đá kêu róc rách, tất cả đồ
đạt áo quần của chúng tôi mang theo đều ướt chèm nhẹp, trời không có nắng để
phơi đồ nhưng cũng phải trải trên những ngọn cây nhờ gió thổi cho khô. Bà An
lên cơn sốt, mọi người rất là lo lắng, nhất là anh Đạt, anh không muốn ở lại
đây lâu, chờ chừng nào đồ đạc hơi khô sẽ đi tiếp, anh bàn với chị Bích và
Khải: - phải làm 1 cái cáng để thay nhau khiêng mợ. Ông An và chị Bích không
chịu; sợ đi kiểu đó bà sẽ mệt hơn, bà cần phải được nghỉ ngơi một cách tuyệt
đối, điều trở ngại lớn nhất là sau cơn mưa đất đai đều ẩm ướt làm sao nằm
nghỉ lại ở nơi đây? Đạt nhỏ nói: - hay là làm 1 cái giường dã chiến cho mợ
nằm, cũng không khó, lấy 4 khúc tre đóng xuống 4 góc đất, chẽ tre làm vạt
giường, rồi làm mái nhà che mưa, lấy lá tre lợp nhà... Hằng trề môi: - nói
nôm na là làm 1 cái chòi, nhưng tại sao lại tính chuyện lâu dài vậy? Anh Đạt
đứng lên, thở phù 1 cái nói với bố: "- con sẽ đi tìm 1 cái chòi thượng
bỏ trống, thường thì họ làm 1 cái chòi ở trong rẫy để canh mùa màng, cậu mợ
và cả nhà ở đây chờ con, cùng chăm sóc mợ cho kỉ ." Anh quỳ gối ôm 2 vai
bà, dổ dành, trấn an:
- Mợ đừng lo gì cả, mọi chuyện đã
có chị em con lo, bên cạnh mợ có đầy đủ cậu và chúng con, mợ cố vui khỏe cho
chúng con vững tinh thần.
Tuy nói thế nhưng tôi thấy trong
mắt anh có 2 giọt nước long lanh chỉ muốn trào ra, khi anh đứng dậy, tôi cảm
thấy thương cho anh quá. Anh Đạt đi lâu lắm, chúng tôi sốt ruột; lo lắng bồn
chồn, cứ nhìn về lối mòn anh đi lúc nảy…ôi mừng quá, anh đã về, anh báo tin
vui :" - Cách đây chừng 1 cây số có cái chòi của Thượng bỏ không, nhìn
còn rất tốt, trong chòi lại có rất nhiều bắp, chúng mình đưa mợ đến đó nghỉ
ngơi vài ngày.
Ai nấy đều mừng rở, Khải cõng mẹ
đi theo anh Đạt, chúng tôi lỉnh kỉnh xách đồ đạc theo sau, Khải mệt rồi tới
phiên Mạnh, tôi cảm động thay cho gia đình chị Bích khi thấy Mạnh nhiệt tình
như người trong một nhà, đường đi tới cái chòi khúc khuỷu quanh co, nó nằm
chơ vơ giữa 1 rẫy bắp củ, trong chòi có rất nhiều bắp khô, có lẽ đây là những
trái bắp được họ chọn lựa để dành làm giống cho mùa sau, bà An được đặt nằm
trên sàn chòi. Tôi nhìn kỷ cái chòi canh này và nhận thấy đây hình như không
phải là chòi canh, mà là nơi để họ nghỉ ngơi khi gặt hái mùa màng và làm kho
cất giử giống má. Họ làm cái chòi này một cách tỉ mỉ khéo tay đến không thể
nào ngờ được; nó có hình chử nhật, tôi đoán một bề dài chừng 4m bề kia chừng
3m, sàn chòi là những thanh cật tre chẻ nhỏ; vót láng được xếp đều đặn ngay
ngắn dọc theo chiều dài của nó và được đan dính vào với nhau bằng những sợi
cật tre mãnh; nhỏ xíu, nhờ vậy mà sàn chòi phẵng lì vừa êm vừa mát, khi nằm
lên đó nó sẽ cho ta một cảm giác thật dể chịu, phía trên mái của chòi họ làm
công phu hơn, vô cùng tinh tế và có một kỷ thuật thẩm mỹ đến cao độ: những
thanh tre được chẽ rất đều, vót thật trơn gát lên mái nhà chòi - có độ cao và
nhọn chảy dốc xuống - từng thanh tre nhỏ xếp cách đều nhau chừng 1 phân; đặt
lên trên nhũng cây đòn tay và được cột lại với nhau bằng những sợi tre như ở
dưới sàn, sự đều đặn và cách khoãng nhau giửa các đòn tay và các cây xà ngang
không thể nào chính xác hơn được nữa, họ dùng lá tranh để lợp mái, và cách
lợp cũng vô cùng công phu, ba phía của chòi được che kính bằng những phên tre
cũng được làm một cách rất tỉ mỉ, họ chừa trống 1 phía, riêng cả 3 phía kia
họ treo từng lớp bắp sát vào nhau không chừa 1 kẽ hở nào; nó đều đặn như vảy
cá; để phơi nắng và hong gió, như vậy chắc chắn đây là nơi để dành giống cho
mùa sau đồng thời là nơi phơi giống cho khô, đầu óc họ thật tuyệt vời.
Số bắp hôm qua bị ướt mưa bây giờ
đem ra nấu, nhờ vậy nó mau nhừ, nhưng phải thật nhừ như cháo để bà An dể ăn,
trán bà nóng hổi mà người bà lại run lập cập, anh Đạt, Khải, Minh; lật đật
đốt lửa trước chòi để sưởi ấm cho bà, ông An, Minh, Khải ngồi bên cạnh đang
chà xát tay chân bà cho bớt lạnh, mọi người ai cũng lo lắng và buồn đến
chảy nước mắt. Bà tỉnh dậy đòi uống nước, cháo bắp cũng đã nhừ, chị Bích
đút cháo cho bà ăn nhưng bà nuốt rất khó khăn, mỗi lần nuốt 1 muổng cháo là
bà nhăn mặt khổ sở, cả nhà ngồi bên cạnh dổ dành năn nỉ bà ăn, cố gắng cho
mau khõe để về Sài Gòn gặp Luật, tôi thấy bà nhướng mắt lên để nuốt miếng
cháo và nuốt luôn cả nước mắt, bà gầy gò, má cóp trơ xương, 2 hố mắt sâu hun
hút, mặt bà vêu vao da vàng vọt, những ngón tay teo tóp, đôi chân bà khẵng
khiu, tôi xót xa ứa nước mắt leo lên ngồi cạnh bà, nắm bàn tay bà bóp nhẹ, bà
nhìn tôi hơi mỉm cười sau đó bà nhắm mắt như muốn ngủ. Cả nhà thay phiên nhau
ngồi cạnh bà, riêng ông thì không rời bà lấy nữa bước, ông buồn rầu, đôi mắt
ông luôn nhìn bà xót xa đau đớn. Ngồi mãi cũng chán, tôi bỏ ra ngoài tìm chổ
nghỉ trưa, Hằng cũng ra ngồi bên tôi, mặc dù 2 đứa khác nhau về nhiều mặt:
tính tình, sự suy nghỉ và những cái khác nửa nhưng chúng tôi lại rất hiểu
nhau, thường chia sẽ cho nhau những lúc cần thiết nhất, tôi quí Hằng vì Hằng
biết cách im lặng nghe tôi khóc bởi một lý do nào đó và kịp lúc dẩn tôi ra
phố để cho tôi nguôi ngoai nổi buồn.
Chiều xuống chầm chậm, tôi thích
buổi chiều nhưng rất sợ đêm tối đến. Có công việc để làm rồi đây, số bắp trên
chòi đủ để nuôi sống chúng tôi trong thời gian chờ đợi; với điều kiện người
Thượng không đến lấy và đuổi chúng tôi đi. Bây giờ chúng tôi cùng nhau gở hột
bắp, nói nôm na là "lẩy bắp hay tẻ bắp;" vì phải làm nhiều nên mấy
ngón tay của mọi người bị sưng phồng đau đớn, nhưng vẫn phải cố gắng tẻ cho
thật nhiều để dành cho những ngày sau không sợ bị đói khi đi trong rừng, phải
hy sinh 2 cái áo sơ mi của ông An để làm bọc đựng bắp; cứ trải rộng cái áo ra
đổ bắp vào rồi túm cái áo lại, cột chặc, thế là xong, thật đơn giản, trong
cái khó thường ló cái khôn; cũng như việc nhóm lữa nấu nướng, vì hộp quẹt
diêm đã hết, Mạnh đã nghỉ ra cách: mỗi lần nấu nước hay bắp, lúc nào cũng
phải đút vào 1 cây củi khô và to, khi tàn ngọn sẽ vùi cây củi đó vào tro để
nó cháy âm ỉ hôm sau lên đường thì xách nó theo…nên không còn khó khăn mỗi
lần nhóm bếp, chúng tôi gọi đùa là : "bếp lữa lang thang ".
Vừa tẻ bắp vừa nói chuyện cho đến
khi 2 tay không thể làm nổi nữa, nhìn lại số bắp tẻ được cũng khá nhiều, vài
đứa ngồi hát vu vơ, chiều xuống nhẹ nhàng, chung quanh cảnh vật mờ mờ hơi
sương, Ngân cũng đã nấu xong nồi bắp, chúng tôi quây quần cùng ăn tối; phần
ăn được nhiều hơn những lần trước. Tối nay không ai còn lòng dạ nào mà nghe
radio, mỗi người đều mang một tâm trạng riêng, nhất là bà An đang bịnh, không
ai còn muốn nghe những câu hứa hẹn hảo huyền, và những lời tuyên bố viễn vông
cùng với thái độ huyênh hoang lớn lối. Thà rằng cứ sống trong hy vọng mơ hồ
của chính mình, bây giờ thì niềm tin của chúng tôi đã bị lung lay ít nhiều,
điều duy nhất chúng tôi muốn là làm sao sớm đoàn tụ với gia đình. Ngọn lữa
bên chòi đang cháy bập bùng; sáng lung linh, ông An, chị Bích và các cháu nhỏ
đang ngủ say, Ngân, Thắm, Hoa, Kiều nằm cạnh nhau kễ chuyện ma, chúng vừa la
nho nhỏ vì sợ, vừa rúc rích cười vì thích thú, đó là những cô bé chỉ trên
dưới tuổi 18, vẫn rất hồn nhiên vô tư, cứ cuống cuồng chạy theo gia đình,
không hiểu vì sao phải chạy, cũng không biết vc là ai, như thế nào và ra làm
sao. Bên đống lửa lúc này chỉ còn Anh Đạt, Hằng, Khải, Minh, Hớn, Đạt nhỏ,
Hưng, Phi và tôi, buồn quá Khải hát, thế là chúng tôi làm 1 đêm văn nghệ
"bỏ túi;" giữa núi rừng nương rẫy để tạm quên đi những gì đang đè
nặng trong tâm hồn mỗi đứa, chúng tôi đang mò mẫm đi tìm lại chính mình thuở
trước với những ước mơ, những đam mê ngọt ngào, Khải vẫn hát những bản nhạc
của Lobo và thêm bãn Let it be của The Baetle, làm cho hồn tôi thổn thức,
Hằng cứ thích hát Cỏ Hồng, còn anh Hưng ca bài Tuyết trắng... Đêm nay; bên
ánh lửa buồn này, có những người ngồi nhớ 1 vùng trời đã mất, 1 quê hương đã
xa và 1 cuộc tình đã chết, lòng nhói buốt run rẫy đến từng sợi lông tơ. Tôi
nhớ cha mẹ, nhớ vú, nhớ anh em tôi; và tôi còn nhớ anh ấy đến quay quắt, quặn
thắt cả ruột gan... muốn khóc lắm mà sao nước mắt cứ chảy ngược vào tim,
trong chúng tôi ai cũng có một nổi nhớ và muôn ngàn nổi lo.
Bé Lan nằm gối đầu trên đùi tôi
ngủ từ lâu, hai chân tôi tê cứng, tôi nâng đầu bé lên rút chân ra từ từ, tội
nghiệp con bé quá, Hằng lấy mền trải ra, chúng tôi nằm xuống, mong cho đêm
đừng dài và mong cho ngày mau đến, thỉnh thoãng bé lan kêu lên trong giấc ngủ
"ba ơi, má ơi;" tôi xoa xoa lưng bé, tôi lại nghỉ về giấc mơ của nó
hôm nào... qua ánh lữa nét mặt nó còn đọng vẻ kinh hoàng, tôi nắm lấy bàn tay
của bé, lòng xốn xang khi nhớ bé cầm mấy trái sung trên tay ngắm ngía rồi đếm
lui đếm tới: "- cô ơi, trái này ăn liền, trái này để dành mai ăn, nhưng
mà nó chát quá cô à...". Ngọn lữa đã tàn, đêm nay trời có trăng; trăng
không tròn lắm; ánh trăng bàng bạc phủ lên mặt nước sông mờ ảo ẩn
hiện ở phía dưới xa kia; gợn sóng lăn tăn đẹp nảo nùng như cảnh
liêu trai…đêm trăng ơi, có biết trăng đã gợi lên trong lòng tôi nổi
nhớ xót xa quay quắc về những đêm trăng ngày xa xưa ấy khi chúng tôi còn
bên nhau, chúng tôi đã cùng đi bên nhau dưới ánh trăng lung linh huyền
ảo, ngồi cạnh nhau bên đập nước Phú Thọ để xây mộng mai sau…còn bây
giờ thì bên cạnh tôi có 1 cuộc đời bé bõng nhưng mang những mất mác quá lớn
lao. Đêm nay trăng đẹp quá mà lòng tôi thì rất buồn._________________________
... CÒN TIẾP .. |
CHÂN MỀM TRÊN ĐÁ
KỲ
THỨ 5
25/03/1975
Bịnh của bà An trở nặng nên anh Đạt
đành phải quyết định nghỉ lại, chờ đến chừng nào bà khỏe hẳn rồi mới đi tiếp,
nhờ có cái chòi này (phải gọi là nhà sàn mới đúng vì nó cao hơn mặt đất khoãng
8 tấc, vừa rộng lại vừa đẹp) mà bà An nằm nghỉ được thoải mái, cũng không sợ bị
mưa hay nắng. Sáng nay tôi theo mấy anh con trai trở lại khúc sông hôm qua để
bắt cá, thật buồn cười vì sáng nay khi quay lại giòng sông cũ chúng tôi mới
khám phá ra 1 con đường tắt rất gần nơi cái chòi; chỉ chừng 300m, hèn gì
đêm hôm qua tôi nhìn thấy ánh trăng lấp loáng trên mặt nước, khúc sông
này nên thơ quá làm chao đảo lòng tôi, tôi dẫn bé Lan xuống sông tắm gội thật
kỉ cho bé, chị Bích soạn bộ đồ của ty em cho bé đem theo để thay, tôi chọc cho
nó cười, hai chúng tôi thơ thẩn đi dọc theo bờ sông lượm những hòn đá màu xám
tròn; trơn láng để dành chơi ô quan, rồi lang thang vào sâu trong rẫy hái nhũng
bông hoa dại, đi chán tôi và bé quay lại chổ mấy chàng đang bắt cá, Khải kêu
to: - "Thủy ơi, xem này;" Khải cầm mấy con cá đưa lên cao vẩy vẩy cho
tôi thấy sau đó liệng qua cho Minh. Hôm nay mấy chàng lưới được chừng 1 chén
cá, nồi bắp Ngân nấu từ sáng sớm giờ đã nhừ, chị Bích biểu Ngân bỏ cá vô nồi để
thành nồi cháo bắp nấu với cá. Bình thường nấu cá mà không đủ gia vị thì nó
tanh ói, nhưng lúc này chỉ cần được như vậy là nhất rồi, không ai còn để ý về
mùi tanh của nó nữa. Hơi nóng từ nồi cháo bắp nấu với cá bốc lên nghi ngút,
Hằng vừa thổi vừa đút cho bà An ăn, bà ăn được nữa ca cháo nóng; mồ hôi bà đổ
ra chảy ròng ròng trên trán, ai nấy đều vui mừng, nồi cháo dù thiếu thốn đủ thứ
gia vị nhung ăn ngon vô cùng, bà An đã bớt sốt và có vẽ tỉnh táo hơn hôm qua
nhiều, bà đã ngồi dậy nói chuyện với mọi người trong gia đình, mấy đứa con chị
Bích ngồi sát vào bà, một cảnh tượng trông thật đầm ấm vui vẽ, tôi rủ Hưng,
Phi, Đạt nhỏ ra bờ sông chơi, giữa lưng chừng trên bờ và dưới nước có 1 tãng
đá lớn, chúng tôi leo lên đó ngồi, 2 chân thòng xuống nước, những làn sóng nhỏ
va đập nhẹ nhàng vào chân của chúng tôi tạo nên một cảm giác dể chịu thích thú
vô cùng, đang ngồi hưỡng thụ thì Hằng chạy tới, Hằng cũng leo lên ngồi trên
tãng đá kế bên tôi, cô nàng nhìn qua bên kia sông và hát "này người yêu;
người yêu tôi ơi…"… Đạt nhỏ khen giọng Hằng hát hay, tôi kể cho Mạnh
nghe:
- Chị Bích hát hay hơn Hằng nhiều,
không thua gì Thái Thanh, ngày xưa anh Thi mê giọng ca của chị Bích rồi cưới
chị, đó là chị kể cho Thủy nghe, mà anh Thi đẹp trai và oai phong lắm đó…
Hằng cười "- Thủy biết gì mà
nói... "
Ngồi trên tảng đá nghịch nước mãi
cũng chán, tôi rủ Hằng đi thơ thẩn ngược lên trên giòng sông, hai đứa ngạc
nhiên vì cảnh thiên nhiên với dòng sông xinh đẹp ở nơi đây, Hằng và tôi chọn
1 gốc cây lớn mọc ở ven sông, 2 đứa ngồi tựa lưng vào đó, tay tôi hờ hững xé
nát nhũng chiếc lá vàng đưới gốc cây, cảnh đẹp nhưng sao lòng tôi buồn quá, có
điều gì đó không rỏ rệt đang làm tan nát trái tim tôi, phải chăng niềm tin
không còn? hay chuyến đi đầy bất trắc này? và nhất là tình yêu của tôi đã mất
?? ? không hiểu sao mỗi lần ngồi thinh lặng trước một cảnh đẹp tôi hay buồn và
nghỉ ngợi lung tung. Phải kiếm việc gì đó để làm; tự nhiên tôi nảy ra sáng
kiến làm 1 đôi giày bằng vỏ khô của trái bắp, mà thứ đó ở quanh rẫy thiếu gì,
tôi sai bé Lan đi gom cho thật nhiều vỏ bắp đem về, tôi tìm 1 loại cây có vỏ
mõng mà dai rồi tước nó ra từng sợi nhỏ làm thành những sợi dây, sau đó tôi lấy
1 cây que xỏ từng lá vỏ bắp rồi cặm cụi kết nó lại với nhau từng lớp, từng lớp
cho thật dày và vuông như tấm thãm nhỏ, cuối cùng tôi luồn sợi dây quanh tấm
thãm, tôi biểu bé Lan đặt chân vào rồi tôi rút dây thắc chặt cho nó ôm gọn chân
con bé, tôi làm được 2 chiếc như vậy, thế là con bé có 1 đôi giày bằng vỏ trái
bắp rất độc đáo và rất... tiền sữ. Bé Lan tung tăng nhảy nhót chạy về chòi
khoe, một lát sau thì mấy cô em gái ào đến, tôi vừa làm cho tôi vừa chỉ cách
cho mấy đứa, một trò vui mới bắt đầu với nhũng đôi giày thời tiền sữ, chúng tôi
chia nhau công việc: gom lá, tước vỏ cây, kiếm que tre làm kim xỏ lá... tôi lấy
3 cây que xỏ vào 1 chiếc lá rồi đố: "cái gì đây? ", vừa lúc đó Khải
ra tới, anh cười kí đầu tôi: "Thủy nói ai ba que xỏ lá hả?" "-
ơ; Khải cũng thông minh ghê; ", tiếng cười của chúng tôi hồn nhiên vui vẽ,
nhưng có ai biết cho rằng... ? Hằng đưa ra 1 ý hay:-" trong thời gian chờ
mợ khỏe, tụi mình làm nhiều đôi giày như thế này để dành mà băng rừng lội
suối," tôi tán thành ngay "- mấy ông vc có đôi dép râu cụ Hồ thì tụi
mình cũng có đôi giày của ông Thiệu, thua gì ai..."(ông Thiệu không có
râu). Con gái làm giày thì con trai đi lưới cá... không ai còn rảnh để mà
buồn.
Mấy anh con trai không thích ngồi
lâu một chổ, ngoài việc lưới cá dưới sông, họ ưa vào sâu trong rẫy để kiếm thêm
thức ăn phụ, đó là những gì còn sót lại trong nương rẫy, tôi và Hằng rất thích
lang thang theo mấy anh, chiều nay chúng tôi vào trong làng Thượng thấy 2 vợ
chồng người lưới cá đang phơi những con cá trên 1 cái nong, 2 người cười đưa
nguyên 2 hàm nướu, không thấy 1 cái răng nào, đi quanh trong làng cho tới khi
mỏi chân chúng tôi mới quay về, ôm theo chiến lợi phẩm; cũng là mấy trái đu đủ,
mấy cây mía, riêng Mạnh; móc trong túi ra 1 gói muối to bằng trái ổi (không gì
quí bằng... ) Đạt nhỏ cười: - Làng này nghèo lắm, trong làng có 1 cô bé xinh
hết biết, da ngăm ngăm bánh mật duyên quá trời, cô em lén cho tôi gói muối này
đây. chà... chưa gì đã thấy nhớ em rồi.
Khải nói đùa: - Tim ông rung rinh
rồi hả? Mạnh nheo mắt nhìn Hằng: - có lẽ thế...
Trong mấy trái đu đủ có 1 trái chín
trông thật ngon, anh Đạt gọt vỏ đưa mời bà An ăn, anh nói đu đủ là loại trái
cây có nhiều chất bổ nhất, dành phần mợ ăn nhiều mau khỏe, phần còn lại chia
cho mấy đứa nhỏ, còn người lớn chịu khó ngồi nhìn... Bà An ăn miếng đu đủ chín
một cách ngon lành, bà khen nó rất ngọt. Đêm nay chúng tôi đi ngủ sớm, giấc ngủ
đến dể dàng hơn những đêm trước; nhờ có tiếng dế nỉ non đều đều như ru ngủ.
Thế nhưng… nữa đêm có tiếng ông An
hoảng hốt gọi các con: "- Đạt, Khải, Bích... ơi, mợ các con làm sao thế
này..." Chúng tôi tất cả đều bật dậy chạy đến chòi, bà An đang sốt run lẩy
bẩy, hai hàm răng của bà va vào nhau kêu lạch cạch, anh Đạt lật đật khều que
củi đang ngún tro đưa lên miệng thổi phù phù cho nó cháy bùng lên, Minh, Hằng
hấp tấp quơ quào hốt vỏ bắp đun vào, Đạt nhỏ, Hưng... chạy quanh kiếm cành
cây khô, và những gì có thể cháy đều thẩy vô đống lữa để sưỡi ấm cho bà, kể
từ lúc đó những người lớn không một ai ngủ được, tất cả thay nhau ngồi bên cạnh
bà, và canh đống lữa không cho tàn, riêng mấy đứa bé vẫn say sưa giấc nồng.
26/03/1975
Trời hừng sáng, bà An vẫn sốt mê man
không ngồi dậy nổi, không khí nặng nề bao trùm lấy chúng tôi, không một tiếng
nói, không một nụ cười, mọi người buồn bã lo lắng nhìn bà, Khải kêu tôi đến
ngồi cạnh bà cùng với Khải, tôi cầm lấy bàn tay gầy trơ xương của bà mà ứa nước
mắt, tôi thương bà lắm vì bà rất tốt với tôi, mỗi lần tôi theo chị Bích hay Hằng
đến nhà chơi, ông bà rất ân cần niềm nở, những bữa cơm ở nhà ông bà đem đến cho
tôi nguồn an ủi khi phải sống xa gia đình. Bây giờ thì bà đang nằm đây, một nơi
heo hút không có tên gọi, trong cái chòi nghỉ của người Thượng, đang từng giờ
từng phút vật lộn với cái chết để tranh dành sự sống, tôi nhìn bà với bao nhiêu
câu hỏi ở trong đầu, dĩ nhiên là bà chẳng thế nào trả lời tôi được khi mà bà
đang mê man. Ở mãi nơi đây buồn và sợ, tôi đi ra bờ sông, leo lên ngồi trên
tãng đá lớn nhìn nước chảy về xuôi, nắng ban mai yếu ớt run rẫy trên những cành
cây ngọn cỏ, cảnh vật bên kia sông sao mà đẹp lạ lùng, như một bức tranh vẽ.
Nước chảy mạnh, tôi gửi theo dòng nước nhũng nổi niềm tâm sự của riêng mình,
chao ơi; dù đã cố quên nhưng sao lòng vẫn nhớ, dù không muốn nghỉ đến nhưng sao
hồn mãi vọng theo... Bao nhiêu câu hỏi cứ luẩn quẩn ở trong đầu; nhiều quá làm
đầu tôi muốn vở tung; Rồi ngày mai, ngày kia và những ngày tiếp đến, điều gì
đang chờ đợi tôi? tôi sẽ thế nào và tôi sẽ ra sao? có bị loay hoay ở mãi trong
khu rừng này không? có về được phía bên kia không? nếu cùng đường có phải quay
lại Pleiku không? tôi sợ lắm nếu phải trở về nơi chốn ấy, trở lại vùng trời của
một thời yêu dấu, cảnh củ còn đó mà người xưa đâu mất. Thành phố đã từng thân
quen sẽ trở thành xa lạ, tôi sẽ cô đơn, sẽ buồn ghê lắm, đi trên con đường nào
cũng gợi nhớ những bước chân quấn quýt bên nhau, từng gốc cây ôm từng kỷ niệm,
góc phố nào cũng là điểm hẹn hò đưa đón, và quán cà phê Vị Thủy là nơi 2 đứa
ngồi ươm mộng mai sau... không đâu, làm sao trở về lại nơi ấy để lòng "Đã
nát càng thêm nát;" không, tôi sợ lắm. Có lẽ tôi ngồi đây lâu ghê lắm vì
nắng đã lên rất cao, tôi dời đô tới gốc cây già bên mé sông, bóng cây che mát
trên đâu; sao mà buồn ngủ quá, có ai đó ru tôi không?... Em ơi hảy ngủ anh hầu
quạt đây... có tiếng người nào đó kêu tôi: " - Thủy ơi; em đâu rồi "…
Hôm nay dù đói nhưng không ai muốn
ăn, nổi buồn lo làm mọi người có cảm giác miệng lưỡi đắng nghét, nồi bắp chỉ
vơi một ít, không ai làm nổi việc gì cho ra hồn, con trai không buồn lưới cá,
con gái chẳng thèm khâu giày. Tôi lững thững ra bờ sông ngồi một mình, chung
quanh yên lặng quá, mới hôm qua thôi, nơi đây còn vang bao tiếng cười vui của
bầy con gái khi khâu xong 1 đôi giảy, và tiếng reo hò của đám con trai khi bắt
được 1 con cá, khúc sông này có dấu chân, tiếng cười của chúng tôi, nghĩa là nó
đã trở thành kỷ niệm trong tôi, mai này khi rời khỏi nơi này, có lẽ tôi sẽ nhớ
và buồn lắm vì một khi đã trở thành kỷ niệm thì có bao giờ vui đâu, tự nhiên
tôi bùi ngùi lẩn bâng khuân xao xuyến, trong đầu tôi có biết bao nhiêu điều
thắc mắc trăn trở. Bây giờ thì tôi muốn ngủ lắm, đừng ai lên tiếng kêu tôi...
nhưng mà... ước gì có một người hát cho tôi nghe rằng:... Tôi ru em ngủ, một
sáng...
Trời sắp về chiều, nắng dịu
dàng ngả bóng phủ lên mặt sông, lên cỏ cây hoa lá, những tia nắng nhảy múa
trên mặt nước lấp lánh sáng như những sợi chỉ vàng, không biết tôi nằm ngủ được
bao nhiêu lâu bên gốc cây này cho tới khi có những tiếng thét lớn; rồi tiếng
khóc la; kêu gào đau đớn của cả nhà chị Bích tôi mới giật mình thức giấc, thế
có nghĩa là bà An đã vĩnh viển ra đi, bà nằm chết trong cái chòi bỏ trống giữa
nương rẫy hoang vu xa lạ với rất nhiều và rất nhiều nổi uất ức. Tôi chạy nhanh
về chòi, cả nhà chị Bích đang vật vã bên xác bà, ông An ôm cứng vợ, ông cứ hôn
mãi vào trán bà, Chị Bích, Hằng, Khải, Đạt, Minh, Kiều, Ty... người níu tay,
người níu chân bà mà khóc lóc thảm thiết, tôi đứng trân trân như trời trồng,
tôi cũng muốn chạy đến ôm bà, tôi cũng muốn khóc như mọi người nhưng sao tôi không
nhúc nhích gì được, lâu lắm; tôi mới từ từ ngồi bệt xuống đất, ý nghỉ của tôi
lộn xộn, nhảy múa lung tung, mọi cảm giác của tôi trộn lẩn vào với nhau như 1
đống xà bần, nhưng tôi biết chắc chắn 1 điều là tôi đang rất thương tiếc bà.
Tôi không thể nói được lời nào để an
ủi gia đình chị Bích, tôi cũng không biết làm gì để xoa dịu nổi đau đớn vì một
mất mác quá đổi lớn lao này, tôi chỉ biết im lặng, nắm tay Khải, Minh; Hằng… để
tỏ lòng muốn chia sẽ của tôi… Lâu lắm, cho tới khi trời bắt đầu chạng vạng,
anh Đạt đốt 1 đống lửa to để có đủ ánh sáng mà thu xếp những việc cần thiết,
anh và Khải sữa sang tư thế cho bà được nằm ngay ngắn, Hằng nhẹ nhàng thay áo
quần cho bà; bộ đồ đẹp nhất. Ánh lửa lung linh huyền ảo, gió thổi làm
cho ngọn lữa bập bùng quằn quại như đang múa một vũ điệu ma quái, chúng tôi
ngồi bên nhau lặng lẽ, trăng đêm nay không sáng lắm vì có nhiều mây che
phủ, ông An ngâm thơ cho vợ nghe, chị Bích khoe đó là những bài thơ ông làm từ
ngày yêu bà, nhìn ông cứ âu yếm vuốt tóc bà, tôi đau lòng quá, cuối cùng ông
đọc 1 bài thơ vĩnh biệt bà mà ông vừa mới sáng tác, khi đọc bài thơ này ông òa
khóc nức nở, khóc thật lớn làm tấc cả mọi người đều khóc theo.
Ở một nơi như thế này; giửa núi rừng
hoang vu và 1 nương rẫy bỏ trống, bên ngọn lữa đêm khuya, dưới ánh trăng mờ
ảo bao trùm lên vạn vật cùng với xác bà An nằm trong chòi, cảm giác rờn
rợn bao bọc chung quanh, tôi mong trời mau sáng, không làm sao ngủ được, tôi
ngồi bên đống lữa, lắng nghe tiếng nước chảy của con sông bên dưới, tiếng côn
trùng rã rích, tôi ví như tiếng rừng đêm đang chuyện trò, Đạt nhỏ lấy cây kèn
Acmonica ra thổi bài Lòng Mẹ, đôi mắt anh chàng đắm chìm trong nổi buồn khó
tã, tiếng kèn của Đạt nhỏ réo rắc trong đêm đen tỉnh mịch đưa tiễn linh hồn
bà An về một nơi xa thật xa. Mấy chị em Hằng nghe tiếng kèn acmonica của Đạt
nhỏ, cùng đến ngồi bên cạnh, khi Đạt nhỏ dứt tiếng kèn, một khoãng không im
lặng lại bao trùm cho tới khi anh Đạt lên tiếng:
- Ngày mai phải làm gì đây? chôn mợ
ở đây hay đưa mợ đi cùng? bây giờ đầu óc tôi rối bời, phải hỏi ý cậu xem cậu
muốn như thế nào.
Chị Bích buồn rầu: " - Lúc này
cậu không thể suy nghỉ gì được đâu, chị em mình quyết định với nhau thôi;"
Minh đưa ra ý kiến: - "Có lẽ nên chôn mợ ở đây. "
Hằng không chịu: - Tại sao lại phải
chôn mợ nơi đây, chúng mình chẳng ai biết đây là đâu, mai sau nếu muốn tìm mợ
mang về với mình thì làm biết đâu mà tìm? nhất định phải mang mợ theo cùng.
- Khó lắm, mang theo như thế nào?
Anh Đạt suy tính: - Đến nước này
chúng ta đành phải liều đi ra đường Quốc lộ, vc chắc cũng không nỡ làm gì
mình khi thấy mình đang mang xác mợ theo bên cạnh, chúng mình vừa đi vừa kiếm
một buôn làng nào lớn, có tên làng, mình sẽ chôn mợ ở bên đường, một nơi dễ
nhận ra, mình sẻ đánh dấu thật đặc biệt, mai sau có lúc nào đó chúng mình tìm
hài cốt mợ đưa về.
Rồi anh phân chia công việc: - Sáng
sớm mai anh nhờ Hưng, Đạt nhỏ, Phi tìm chặt cho anh vài cây tre to bằng cổ
tay, dài chừng 3m để làm đòn gánh, tìm loại vỏ cây mà Thủy khâu giày ấy, lấy
thật nhiều để bện lại thành sợi dây dài, chắc, càng nhiều sợi càng tốt, còn
anh; Khải, Minh sẽ quấn mợ trong poncho, mình lấy dây buộc túm 2 đầu che kín
đầu và chân của mợ, ở giữa mình cột làm 4 đoạn, Mạnh khéo tay làm thắt dùm anh
mấy cái khoen tròn để xỏ cây đòn gánh vào, bọn anh sẽ thay phiên nhau gánh mợ,
mỗi người một đầu.
Chị Bích lại khóc, chị trách tôi: -
Trước khi chết mợ nhìn đủ các con, lúc đó em ở đâu, làm gì? sao không ngồi với
mợ?
Tôi không thể trả lời chị và tôi
cũng không biết phải trả lời như thế nào, bởi vì lúc đó tôi đang ngồi bên bờ
sông, đang đi tìm câu trả lời cho chính những câu hỏi mà tôi tự đưa ra:
1 / Tại sao người ta lại pháo kích
vào đoàn GMC chở đầy người dân đi di tản ở cây số 168?
2 / Chúng tôi là những người vô tội,
may mắn lắm mới thoát chết, có người bị tan xương nát thịt, có biết bao nhiêu
gia đình ly tán, có biết bao nhiêu đứa bé trở thành mồ côi như bé Lan? Tại
sao?...
3 / Tại sao chúng tôi trở thành mục
tiêu cho họ pháo kích? vì vô tình hay cố ý?
Không ai trả lời những câu hỏi này
của tôi, nó cứ luẩn quẩn ở trong đầu, làm tôi luôn nhức nhối. "- Chị Bích
ơi, em biết chị muốn nói với em điều gì rồi, nhưng thôi khoan đã chị à"
27/03/1975
Hằng lay lay vai gọi tôi thức dậy
để làm lể tẩm liệm cho bà An, tôi là người sau cùng xuống sông rửa mặt súc
miệng, trời vẫn còn mờ hơi sương, khi quay trở về đã thấy mọi người đứng xếp
thành 2 hàng trước nhà sàn, Đạt và Khải trải thẳng tấm poncho ra giữa sàn rồi
cả 4 người con ẵm bà lên đặt vào đó, tất cả mọi người cúi đầu lặng yên cầu nguyện
cho linh hồn của bà sớm siêu thoát, tôi làm dấu thánh giá đọc kinh Kính Mừng,
nguyện xin Chúa ban cho bà được ơn cứu rổi, 5 phút yên lặng qua đi, những tiếng
sụt sùi nho nhỏ vang lên; sau đó là những tiếng kêu gào thãm thiết và khóc la
nức nở, chị Bích; Hằng và Kiều ngồi bệt xuống đất dẩy dụa vật vã khi anh Đạt và
Khải, Minh… lấy 2 thanh tre ép sát vào 2 bên người bà, thêm 2 thanh đặt dưới
lưng, sau đó cuộn tròn cái poncho lại mấy vòng, Đạt nhỏ, Hưng, Phi mỗi người
phụ 1 tay; chia đều thành 6 khoanh; mỗi khi cột một khoanh anh Đạt lồng vào 1
cái khoen để xỏ cây đòn gánh vào (mà Đạt nhỏ đã thức 1 đêm bên ánh lữa để
làm) sau đó anh và Khải cố sức siết thật chặc, trông như 1 đòn bánh tét, Mấy
người vừa làm vừa khóc, nước mắt nước mủi chảy đầy mặt, thỉnh thoãng đưa tay
lên chùi, riêng ông An ngồi bất động từ đầu cho đến khi các con làm xong việc,
ông lầm thầm nói chuyện một mình và ông đọc thơ, lúc này thì tôi cũng khóc
nhiều ghê lắm, khóc vì thương mọi người và thương cả chính tôi nữa. Khi việc bó
xác bà An đã hoàn tất, chúng tôi mỗi người tìm bẻ 1 cành cây khô nhỏ;đốt cháy
và cắm trước xác của bà thay cho cây nhang, rồi cùng nhau quì lạy, trước khi
lên đường mỗi đứa ăn 1 nắm bắp, vẫn chưa ai nói chuyện được với nhau, mọi việc
xảy ra quá nhanh, quá đột ngột và chúng tôi vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh táo,
cũng không ai nghỉ đến số bắp ở trong chòi còn rất nhiều, và rất cần để mang
theo.
Phải lên đường thôi; tôi nhìn quanh;
lòng hơi bâng khuân xao xuyến khi từ giả nơi đây với ít nhiều lưu luyến; thi
hài bà An được kính cẩn nhẹ nhàng đưa xuống, anh Đạt gánh phía trước, Khải gánh
phía sau, ông An đi bên hông, tay ông nắm một góc tấm pôncho như nắm lấy bà,
chúng tôi nối đuôi nhau thành hàng dài theo sau. Một đám tang lặng lẻ ra đi vào
một buổi sáng sớm khi nắng chưa lên khỏi ngọn cây, không một mãnh khăn tang
trên đầu và người chết chẳng có được cái quan tài, mấy người con gái không
ngừng khóc, tiếng khóc tỉ tê nghe rất buồn, mấy đứa cháu cũng buồn; khóc theo
người lớn, một đoàn người lôi thôi lếch thếch, đầu để trần, chân đi giày lá,
mặt mủi đen thui đang lầm lủi bước… Xác bà An tuy nhẹ nhưng 2 vai của 2 anh em
cứ so lên làm cái cổ rụt xuống, lúc đầu 2 người đi những bước chậm và nhẹ nhưng
càng lúc càng nhanh, sợ mặt trời lên cao thì mệt. Chúng tôi đã ra tới con đường
nhựa, đây có lẻ là QL, nhưng sao mà im vắng thế này? không một tiếng xe cộ,
không một bóng người, cũng chẳng có 1 mái nhà, cảm giác rờn rợn nhưng dù sao
khi ra đến đây rồi chúng tôi hơi nhẹ trong lòng một chút. Sau cơn mưa hôm kia
trời chỉ hiu hiu nắng và sương chưa tan hẳn,, nhưng khi mặt trời lên cao, sương
tan dần thì nắng bắt đầu gay gắt, hơi nóng từ đường nhựa bốc lên hừng hực, ngực
tôi như bị ai đó ép chặt lại, hơi thở trong lổ mủi nóng hổi, tôi thở rất khó
khăn, tôi kêu lên: "CHÚA ƠI XIN HẢY CỨU CON; ", tôi sợ lắm, sợ phải
chết dọc đường như bà An, và tôi thầm lặng đọc kinh KÍNH MỪNG, bất ngờ tôi thấy
bên vệ đường 1 tấm lịch nhỏ có in hình ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP; mừng quá nên quên
hết những cảm giác đang làm tôi mệt mỏi đau nhức, tôi lượm tấm lịch lên, vùa đi
vừa coi ngày tháng trong đó, ôi chao, sắp tới lể CHÚA PHỤC SINH rồi... Trên
quãng đường chúng tôi đang đi bắt đầu xuất hiện những dấu vết tàn phá khủng
khiếp của bom đạn, những sự kinh hoàng của trận đạn pháo của mấy ngày trước, xe
cộ nằm ngổn ngang đủ mọi tư thế dọc theo con đường dài, chiếc lật nghiên, chiếc
chổng 4 bánh lên trời, chiếc thì bẹp dúm, có một số xe nằm bên lề đường. Những
đồ dùng của gia đình như tủ lạnh, tivi, máy may… bị vất bỏ đầy đường, có lẻ để
nhẹ xe mà chạy cho nhanh. quãng đường này cũng giống như đoạn QL19 ở đầu cầu
suối đôi, theo như trong bản đồ mà anh Đạt cho tôi xem thì đây là con đường rẽ
của QL19 từ đèo An Khê chạy thẳng về thị trấn Cheo Reo, và thị trấn Cheo Reo là
nơi gặp nhau của 4 ngã đường: 1 / ngã quay về Hàm Rồng rồi trở lại Pleiku, 2 /
ngã rẽ qua Ban mê thuột, 3 / ngã đi ngược lên phía trên để về An Khê và Qui
Nhơn, 4 / đường về Tuy Hòa ngang qua Phú Bổn. Hiện giờ đoàn người đang đi
trên con đường về thị trấn Cheo Reo, và từ Cheo Reo chúng tôi sẽ đến Tuy Hòa,
rồi sau đó thì... A; một tia sáng lóe trong đầu tôi, tôi đã có được câu trả lời
cho những câu hỏi tại sao và tại sao của tôi; một khúc phim quay chậm trong đầu
tôi; và được tóm lược lại như sau:
Ngày 10/3/75 vc tấn công dồn dập Ban
Mê Thuột, trước tình hình đó người dân trong thành phố Pleiku được lệnh di tản
hoàn toàn. Lộ trình di tãn theo kế hoạch đã vạch ra là: đoàn xe chở dân chúng
đi theo QL 19 xuống Qui Nhơn sau đó từ QN về Nha Trang trên QL 1, nhưng vào
những ngày tiếp theo sau đó Qui Nhơn bị đánh chiếm, thế là đoàn xe chúng tôi đi
không xuống QN nữa mà đi về ngã Tuy Hòa thẳng tới Nha Trang, đúng hơn thì những
tỉnh đồng bằng miền Trung cũng được lịnh di tãn từ trước, cũng về QN và Nha
Trang, như thế tất cả mọi ngã đường đều được trưng dụng để đưa mọi người ra
khỏi những thành phố mà QĐVNCH không thể nào trấn giữ nổi. 15g30 - 16/03/75
chúng tôi lên xe rời khỏi thành phố Pleiku, đoàn xe chạy rất chậm và phải dừng
lại hoài vì bị nghẻn đường, có nơi chỉ nhích từng chút một; chậm như rùa bò.
Đến 9g sáng 17/03/75 đoạn đường ngay đầu cầu Suối Đôi bị vc pháo kích dử dội;
quân bắc việt cố chặn đoàn xe đang chở dân di tãn, chúng tôi đã phải bỏ chạy
tán loạn, tất cả các con đường đều bị bắn chận, và nó nằm ngay Phú Bổn,
ranh giới tỉnh Phú Yên theo QL19 về Qui Nhơn. Có nghĩa là quân BV không muốn
chiếm 1 thành phố bị bỏ ngỏ, trống trơn, không có dân; nên họ dùng đủ mọi cách;
mọi giá, kể cả làm cho bao nhiêu người dân vô tội phải bị chết, với biết bao
thảm cảnh đau thương đã xảy ra; để giữ dân ở lại, và đoạn đường này là một bằng
chứng cho điều đó. Chúng tôi ở giữa của 2 làn tranh chấp dành giật: một bên kéo
chúng tôi và đưa chúng tôi đi cho bằng được, một bên quyết lôi; giữ chúng tôi ở
lại bằng mọi giá, vậy thì bên nào thương; bên nào thật tâm lo cho chúng tôi
đây?
Có mùi thối khủng khiếp ở đâu đây,
chúng tôi dáo dác nhìn quanh... - ối... à... kia kìa...Đạt nhỏ kêu lớn; đồng
thời chúng tôi thấy một thây người bầy nhầy đầy cả ruồi và kiến bu đen còn dòi
thì lúc nhúc bò trong miệng, trong mủi, trong 2 con mắt... mặt người này chỉ
còn là những hố sâu đầy kiến, ruồi và dòi bọ trông rất là ghê rợn, chúng tôi
nổi hết cả da gà, chóng mặt, mắc ói, đứa nào cũng bịt miệng; mủi chạy thật
nhanh, vượt qua cả anh Đạt và Khải, tội nghiệp 2 anh em Đạt, Khải đang cố đi
thật nhanh, không dám chạy vì sợ xác mẹ bị xóc. Khi mũi chúng tôi không còn
ngửi mùi hôi nữa, mọi người ngừng lại bên một gốc cây lớn có tán xòe rộng đầy
bóng mát che phủ một khoãng đất trống bên đưới, chúng tôi ngồi nghỉ mệt, mặc
dù bụng đói nhưng không ai muốn ăn, chỉ muốn được uống nước mà thôi. Anh Đạt
cho mỗi người uống 1 ngụm nhỏ, nước trong ấm còn rất ít mà nơi đây lại cách xa
con sông, Minh lượm được 1 gói bột vị tinh trong bao mì gói chia cho mỗi người
nếm 1 chút xíu, ôi chao; ước gì bây giờ được ngậm 1 viên kẹo ngọt... mơ mộng
viễn vông và thèm muốn đủ thứ...
Đến lúc lên đường rồi, lần này Mạnh,
Minh thay cho Đạt, Khải. Minh gầy, nhỏ con nhất trong gia đình nhưng lại rất
chững chạc, mấy ngày qua đã làm cho Minh gầy ốm hơn… "đã ốm càng thêm
ốm.." đôi vai cậu bé rút lại dưới sức nặng của mẹ, nhìn Minh tôi rất xót
xa thương em, 2 chân Minh bước hơi loạng choạng. Chúng tôi đi đưới cái nắng
càng lúc càng gay gắt và sức nóng càng lúc càng tăng cao, đứa nào cũng lầm lủi,
chân nọ đá chân kia, mấy đứa con chị Bích được người lớn cõng từng đoạn, hết
mệt thả xuống đất đi tiếp, tôi nắm tay bé Lan dắt đi bên cạnh mình, làm sao tôi
cõng nổi bé đây. Không một ai biết được mình sẽ đi bao lâu nữ và không ai biết
được chừng nào mới gặp 1 nơi thích hợp để chôn Mẹ, cứ nhắm mắt nhắm mủi mà đi
thôi, nhưng hình như chúng tôi đang muốn nổi... điên vì sợ hải, muốn cắn xé một
cái gì đó, anh Đạt trấn an chúng tôi, nhưng chính anh cũng đang sợ như chúng
tôi, sợ rất nhiều thứ, phải ngừng lại nghỉ mệt, chiều xuống nhanh, mặt trời
đang ngả về tây, bóng cây đổ dài theo bóng nắng. Không hiểu sao chúng tôi cùng
nhìn sững vào cái xác của bà An, tôi lẩn thẩn nghỉ nếu như mình bị chết, chắc
mình sẽ bị vùi thây xuống 1 cái lổ nào đó ở đâu đó... khát và mệt, Mạnh hình
như đang suy nghỉ điều gì đó, anh chàng nhìn mông lung và. . . khóc thì phải,
sao tôi kỳ cục quá, nhìn ai cũng thấy như là họ đang khóc. Khải đứng lên nói là
đi kiếm nước uống, Ngân đưa cho Khải cái thùng, tôi đi theo Khải len lỏi qua
các bụi rậm, bất ngờ 2 đứa thấy 1 hồ nước, mừng quá 2 chúng tôi chạy nhanh đến,
đó là 1 cái hố bom, sau mấy cơn mưa lớn; hố bom đầy nước trở thành 1 cái hồ,
nước trong hồ nổi váng màu vàng, Tôi và Khải nhào xuống...- "ôi; đã
quá…" lúc này chẳng nghỉ gì tới bịnh, sau khi uống nước no bụng 2 đứa…tỉnh
cơn mê, lúc đó mới phập phồng lo sợ, về tới chổ mọi người đang nghỉ chân, tôi
kể lại cho chị Bích nghe, chị la tơi bời, chị cấm không cho ai được ngu như
-"con nhà Khải và cái Thủy;" thật buồn cười là khi thấy hố bom đầy
nước 2 đứa quẵng cái thùng nhào xuống uống cho đã, sau đó chạy về báo tin vui,
quên luôn cái thùng... Đạt nhỏ theo Khải đến hồ, tìm lại được cái thùng, anh
chàng xách về 1 thùng đầy nước, Ngân nấu một ấm nước đâỳ, có được nước rồi
anh Đạt bắt mọi người đi thêm 1 quảng đường nữa, kiếm chổ nào tốt để nghỉ qua
đêm.
Hoàng hôn buông xuống, nhớ câu thơ
của ai đó mà tôi quên tên: "Hoàng hôn rồi lại hôn Hoàng..", nghỉ cũng
vui vui, mặc dù không có chổ vừa ý nhưng phải nghỉ lại nơi đây thôi, Ngân cùng
Hoa chuẩn bị nấu bắp, nấu nhiều hơn một chút còn để dành mai ăn rồi đi thật
sớm, bên bếp lữa đêm nay với xác bà An nằm đó, dù buồn lắm nhưng phải nói
chuyện cho có tiếng người, chúng tôi nói đủ thứ chuyện "trời ơi đất
hởi;" những chuyện tào lao cở "tề thiên bắn đại liên;" nhưng
không ai dám cười lớn tiếng vì ông An đang ve vuốt cái poncho bọc thân xác bà
An trong đó. sao tối nay nhiều muổi quá, hết nói chuyện lại quay qua đập muổi
cho mấy đứa nhỏ. Mong đêm chóng qua cho trời mau sáng, rồi mong trời đừng đổ
cơn mưa, mong đường không còn xa... mong… và… mong… nhiều điều mong ước lắm.
28/03/1975
Mặc dù suốt đêm gió chuyển hướng và
thổi mạnh nhưng may là trời không mưa, chúng tôi không ai ngủ được nhiều ngoại
trừ mấy đứa bé, mới hừng đông là đã phải thức dậy chuẩn bị lên đường, một ngày
như mọi ngày: ăn 1 nắm bắp rồi khăn gói quả mướp đi tiếp. Sáng nay anh Hưng và
Phi thay cho Minh và Đạt nhỏ, hai người tự nguyện làm việc này như muốn chia
sẽ nổi đau của gia đình chị Bích. Chúng tôi đi được một quảng đường cũng khá
dài, đang định tìm nơi có bóng cây để ngồi nghỉ mệt thì thấy 1 nhóm người từ
trong rừng đi ra, lúc đầu chúng tôi tưởng đó là người dân tộc nhưng không phải;
họ là người kinh như chúng tôi; nhìn kỷ thì đó là 1 gia đình, ông chồng mặc cái
áo mai dô đã ố vàng, cái quần kaki xanh, bà vợ đội trên đầu cái áo kaki của
chồng, chân mang đôi vớ nhà binh, chị ôm trên tay 1 em bé quấn trong cái khăn
lông nhà binh, một bà già đang dìu chị, thêm 3 đứa bé lủ khủ níu áo cha mẹ,
chúng tôi dừng lại, rồi nhìn nhau với cái nhìn ái ngại thông cảm; có đôi chút
ngạc nhiên, anh Đạt hỏi trước:
- Anh... chị... sao vậy?
Người chồng trả lời: - Gia đình tôi
đi từ Kontum, lúc bị họ pháo kích dử quá, tụi tôi chạy trốn vô rừng, đâu chừng
10 ngày rồi đó, chẳng nhớ được… vợ tôi sanh trước khi di tản 1 tuần, khổ hết
sức may mà gặp làng của Thượng, họ cho bắp, bí mà ăn tạm; ở đỡ, nhưng tới lúc
này chịu hết nổi rồi vì vợ tôi yếu lắm, thôi thì...
Họ nhìn cái gánh có vẻ thắc mắc:
-... gì vậy...
- Mẹ tôi đó, chết chiều hôm kia, có
lẻ bị sốt rét rừng, gần 10 ngày nay gia đình tôi cũng loanh quanh lẩn trốn
trong rừng, tụi tôi kiếm buôn Thượng nào lớn lớn để chôn bà. Bây giờ anh đưa
gia đình đi đâu?
Về nhà thôi, hôm qua nghe có tiếng
xe chạy rần rần, tôi bò ra xem, xe của vc, họ chở nhiều dân trên xe lắm, cứ về
rồi tính tiếp, ở trong rừng chỉ có mấy ngày thôi mà... dài như cả năm, thấy mẹ
và vợ con mình đói khổ quá... tôi không chịu được, ra đây đón xe trở về nhà...
Chị Bích phân vân một chút, sau đó
chị biểu Ngân lấy trong nồi 2 nắm bắp chín đưa cho bà già, anh Đạt hỏi thăm
làng Thượng mà họ tá túc ở đâu? xa hay gần? ông ta đưa tay chỉ vào phía sau
lưng mình: - cũng khá xa, đi tuốt trong sâu, mà làng nhỏ xíu hà. Tôi hiểu rỏ ý
anh Đạt khi hỏi câu đó, tần ngần chào nhau rồi chúng tôi đi tiếp. Hai chân tôi
nặng nề kéo lê từng bước, gặp gia đình này rồi lòng tôi lại ngổn ngang
"trăm mối tơ vò;" không sao phân tích được từng thứ tình cảm cho rỏ
ràng chính xác; vừa buồn bả, vừa nôn nao, lại vừa chán chường muốn buông xuôi,
cọng thêm nổi ray rức, khổ đau, chờ đợi... mọi thứ cứ trộn lẩn vào nhau; xoáy
sâu làm nát bét trái tim tôi như một ly cóc tai xay nhuyễn, không tách ra được
từng loại trái cây gì với trái gì, duy có một điều tôi biết rỏ ly cốc tai đó
không có đường và các thứ trái cây còn sống nhăn, đắng nghét.
Qua gần 2 ngày phơi nắng và 1 đêm
phơi sương xác bà An bắt đầu có mùi, càng lúc mùi thối càng nặng nề, phả đầy 2
lổ mủi; nhất là khi chúng tôi đi phía sau lại ngược gió nên ai nấy phải vừa đi
vùa bịt mủi, đến nước này anh Đạt đành phải cho chúng tôi đi trước, anh và Khải
gánh xác mẹ theo sau, đã qua khỏi buổi trưa, phải đi làm sao cho được càng
nhiều càng tốt nếu không muốn chôn mẹ đọc đường, nổi thương xót mẹ làm mọi
người đi như chạy, mong trời thương cho gặp được nơi tốt để chôn bà, vì ai cũng
muốn mai sau sẽ đưa bà về nhà.
Chiều rồi đó. Gió chiều nay thổi
mạnh làm mùi thối bốc ra bao phủ cả không gian, hình như xác bà An đang chương
phình, căng cứng trong tấm poncho, chúng tôi dừng chân nghỉ tạm bên đường, câu
hỏi cứ vương vấn mãi trong đầu của mọi người: phải làm gì bây giờ? không ai dám
trả lời; bỏ thì thương mà vương thì tội, ai cũng xót xa đau đớn. Không một ai
muốn đi tiếp;mọi đôi chân đều nặng như đeo đá, anh Đạt ngồi im, đầu gục xuống
làm hai vai anh nhô cao, anh không dấu nổi sự mệt mỏi chán nãn của mình, những
ngày qua anh đã cố hết sức để gồng gánh một trách nhiệm quá lớn của gia đình,
anh cố đứng vững cho chúng tôi được nương tựa vào, lúc này thì vẻ cứng rắn của
anh đã mất tiêu, anh đưa tay chùi nước mắt, tôi ngậm ngùi nhìn anh, buồn lắm
lắm... Chúng tôi ngồi mãi ngồi hoài, mỗi người theo đuổi một ý nghỉ riêng,
không ai nói chuyện với ai cho tới khi trời nhá nhem, ngày sắp tàn, mấy đứa bé
mếu máo khóc vì đói và vì muổi cắn, lúc đó chúng tôi mới tỉnh cơn... mộng du.
Nhưng kìa… Ah;đây là mơ hay tỉnh? trong sự im lặng của chiều tà văng vẳng đâu
đây nương theo làn gió có tiếng chiêng; tiếng cồng lúc to lúc nhỏ; vừa trong
thanh vừa trầm đục;chúng tôi cùng đứng bật dậy như cái lò xo; và nữa kìa...
những ánh lữa bập bùng trong ánh hoàng hôn, anh Đạt reo lớn tiếng: "Phía
trước có làng thượng... mau, đi mau…" anh và Khải lật đật gánh xác bà An
đi mà như chạy; Minh dìu bố, mấy đứa bé không chạy nhanh như người nên chúng
tôi chia nhau mà cõng và ôm, xách…đồ đạt. Không biết động lực nào khiến chúng
tôi chạy nhanh như thế, mới một phút trước đây thôi nếu có con ruồi nào bu vào
mép chưa chắc đã đuổi, thế mà bây giờ…chạy cứ y như vận động viên điền kinh. Đó
là một buôn làng lớn nằm bên đường, hôm nay trong làng có hội, anh Đạt bắt đám
đàn bà con gái chờ ở ngoài đường cách làng chừng 100m; để đám đàn ông con trai
vào làng dò xét tình hình;nhưng chỉ có ông An và Hằng phải ở lại canh chừng
xác bà, còn chúng tôi vừa nôn nóng vừa tò mò nên lò dò đến gần và đứng lấp
ló ngoài cổng làng, Ngân lấy những nắm bắp cuối cùng nấu lúc nghỉ chân ban
chiều chia cho ông An và các cháu, mổi người chừng chục hột bắp, rồi
chạy theo tôi. Chúng tôi chờ đợi mấy anh con trai chừng như cũng mỏi mòn, mải
lúc sau mấy anh chàng trở ra mặt mủi có vẻ hớn hở tươi tỉnh lắm, tụi tôi háo
hức, nôn nóng nghe kể về chuyến thăm dò, ông An cũng chạy tới, Khải vừa xoa xoa
bụng vừa kể thay:
- Khi tụi này vào trong làng;làm như
họ biết tụi này bị đói, họ đem ra 1 rá cơm nguội trộn khoai, tụi tôi mỗi đứa ăn
được nữa chén, gạo của người Thượng ngon quá chừng; vừa dẻo vừa ngọt...
Tự nhiên tôi giận Khải đến ứa
nước mắt và có đôi chút ghét nữa… mới ngày nào anh chàng còn đòi móc trái tim
của mình ra nhờ tôi giử dùm, bây giờ có nữa chén cơm trộn khoai Khải cũng ăn
một mình, chẳng nhớ chừa cho cái người đang giử dùm trái tim mình một miếng
của nữa chén cơm…trả lại Khải trái tim của Khải, ai hơi đâu mà giử không
công…tôi trách Khải mà nước mắt rưng rưng: - "anh ích kỷ, chỉ biết ăn một
mình không chừa cho Thủy; lại còn khoe;" Anh Đạt binh Khải: - "chủ
nhà họ vét nồi, còn kêu mấy nhà bên cạnh, gom góp được chừng đó tụi anh đứa nào
cũng đói nên lở quên, ăn xong mới... nhớ, xin lổi cả nhà..." anh gải gải
đầu nhìn thấy mà tội nghiệp. Ông An vội hỏi:
- Xác của mợ các con tính sao? có
chổ để chôn mợ không?
- Ah quên, con có hỏi xin ông chủ
nhà ở đầu làng rồi, họ không cho đem xác người chết vô làng, phải để xa xa,
ngày mai họ chỉ chổ cho mình chôn, mà chỉ được chôn ở ngoài làng, họ sẽ đưa
cho mượn cuốc; xẽng...
Ai nấy thở phào nhẹ nhỏm, coi như
vấn đề quan trọng nhất đã được giải quyết, đến vấn đề... bao tử và sự giận hờn;
tôi đòi Đạt nhỏ dẫn tôi và Hằng vào làng, chị Bích, Ngân, Hoa, Minh, Kiều,
Thấm cũng đi theo, thâm tâm người nào cũng muốn có chút gì đó bỏ vào bụng,
đồng thời xem hội làng cho vui. Trời tối nhưng nhờ có trăng; dù trăng không
sáng lắm, (vì tôi không bao giờ để ý tới ngày âm lịch) nhưng chúng tôi cũng
nhìn thấy được cảnh trong làng dưới ánh trăng mờ. Đúng là hôm nay làng có hội
nên vui vẻ lắm, người ta cười nói líu lo, trai làng gọi các cô sơn nữ bằng
những tiếng... "hú…hù…oa…oa…", cả con trai con gái đùa giởn với nhau
một cách hồn nhiên vô tư, làng này giàu có và đông dân, chính giữa làng là một
căn nhà rông dài có mái nhọn cong vút, chung quanh là những căn nhà sàn nhỏ,
dưới sàn nhà tôi thấy:heo, bò, gà, vịt, trâu... đang nằm ngủ ngổn ngang; còn
trên sàn là người ở, nhà nào ở giữa sàn cũng có 1 bếp lửa đang cháy đỏ riu riu,
các chú chó chạy loanh quanh sủa inh ỏi khi thấy chúng tôi. Đến một căn nhà gần
cuối làng Mạnh chụm 2 tay đưa lên miệng kêu: "hú... hù... oa…òa…;
"một bà già từ trong nhà bước ra; từ trên sàn bà ta nhìn xuống chúng tôi
rồi líu lo 1 tràng tiếng thượng, chẳng ai hiểu bà ta nói gì, Đạt nhỏ dùng
ngôn ngữ quốc tế bằng tay, anh chàng chỉ vào bụng chúng tôi sau đó chỉ vào
miệng, bà già cười đưa ra 2 cái nướu, miệng bà ta móm xọm không còn 1 cái răng
nào, bà có vẻ hiểu chúng tôi muốn gì và hỏi chúng tôi bằng tiếng kinh "-
ăng cưm hớ..."…cả đám gật đầu " - dà..." bà ta bước xuống sàn
nhà trên cái thang bằng một lóng cây tròn đẻo từng nấc và ra dấu cho chúng tôi
đi theo - từ nhà này sang nhà khác - đến mỗi nhà bà lại kêu người trong nhà ra;
chỉ vào chúng tôi rồi líu lo 1 tràng, người nào cũng lắc đầu, đến căn nhà sàn
thứ 6 (may mắn thay;) khi nghe xong người này gật gật đầu đi vào trong; lát sau
đem ra cho chúng tôi một gói lá chuối trong đó là bắp nấu chung với gạo nếp,
mọi người mừng quá chắp 2 tay xá xá tỏ dấu cám ơn rồi nhanh chân đi như chạy ra
khỏi làng, chúng tôi cùng ăn mà ứa nước mắt, ăn xong mới cảm thấy mình nhục nhả
và hèn hạ thế nào ấy, nhưng phải công nhận rằng cơm của người Thượng ngon; ngọt
làm sao. Đêm nay chúng tôi được bình yên nằm ngũ cạnh làng Thượng giàu có
này, bên tai là tiếng chiên; tiếng cồng lúc to lúc nhỏ theo làn gió, văng vẳng
đâu đây có cả tiếng đàn guitar vọng lại đầy tha thiết, sâu sắt, lay láy rất
riêng biệt của núi rừng Tây Nguyên... tùm... túm... tum… túm tum…tờ…rùm…tum túm
tum…Tôi tưỡng tượng ra hình ảnh của những nàng sơn nử đang nhảy múa bên ánh lữa
bập bùng…và tôi đi vào giấc ngủ cùng với nhửng điệu nhảy trong mơ
HỒ THỦY
HỒ THỦY