Cao Xuân Huy
Tháng Ba Gãy Súng
hồi ký, 1985
Tựa
Gần 29 năm đã qua kể từ ngày chiến tranh
Việt Nam chấm dứt, cuộc chiến tranh dài nhất thế kỉ 20 của nhân loại.
Trên tất cả những nội dung chính trị, lịch sử và tư tưởng, nó trước hết
là một cuộc chiến tranh trong đó hàng chục triệu người Việt Nam - dù là
người chiến thắng hay kẻ chiến bại, phía bên này hay bên kia chiến tuyến
- đã phải trả giá bằng sinh mệnh, chia li, cơ cực, bằng sự hủy diệt môi
trường, sự tàn phá nhân tính và bằng những vết thương thời hậu chiến.
Tháng Ba Gãy Súng, hồi kí của Cao Xuân Huy, nguyên trung úy Thủy Quân
Lục Chiến trong quân đội miền Nam Việt Nam, kể về giai đoạn cuối cùng
của cuộc chiến tranh ấy tại Quảng Trị-Thừa Thiên-Huế. Trân trọng giới
thiệu cùng bạn đọc.
talawas
Tôi
không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến
đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ
là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng
chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham
dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những
chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự. Trong
lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào
Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt
Cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì
rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng
là cái gì đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ
năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái
thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi,
chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để
suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại
có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào
quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ
địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích
bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều. Tuy
nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng
sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị
như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo
tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình
thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính
tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu. Nhưng,
khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá lữ đoàn trưởng và trung tá lữ
đoàn phó bỏ lữ đoàn gồm bốn tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc
tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để
chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt
Cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và
Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy
mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa
mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải
tuân lệnh một cách tuyệt đối. Làm thuyền
trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết
theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy.
Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội.
Chúng ta thua không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta
có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát
và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày
cuối cùng trước khi cả lữ đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại
đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đã như một cuốn
phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu
lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với
từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua. Tôi
ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm
tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi
đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái "Ðể
mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội
bé". Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có
tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội
luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này. Ðiều
tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn
chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình
vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của
mình, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại
cái lỗi đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có
toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ
dám nhận một cái lỗi chung chung "lớn lỗi lớn, bé lỗi bé" đúng theo cái
kiểu "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Thằng thất phu còn có lỗi
thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy. Tôi
không nhớ câu này của ai: "Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có
gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm
được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo
túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi". Ðâu
phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân
làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Ðâu phải
những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm
lại một trận mới. Trí đã không mà dũng
cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa
bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh
lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại
tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì
quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người
đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính
danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã
không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ
mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng
được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé
miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn
bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm. Quyển
sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa
từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện
như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng,
tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu
súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi
đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng
của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế
đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng
tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy. Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng
là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất
cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến
đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một
hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp
bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà
tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt
thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành. Nếu Tháng Ba Gãy Súng
là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái "những
nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự
trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...", trong khi tôi chỉ có một
điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều
tôi phải viết. Cao Xuân Huy
No comments:
Post a Comment